
Ở những vùng nông thôn miền núi nói chung và ở tỉnh ta nói riêng, sự phát triển kinh tế vẫn lấy nông nghiệp làm chủ đạo. Nhưng do trình độ dân trí còn thấp, nhiều phong tục tập quán lạc hậu đã ăn sâu, bén rễ qua nhiều thế hệ nên ngại đổi mới, điển hình như thói quen sản xuất manh mún, tự cung tự cấp, phụ thuộc quá nhiều vào điều kiện thiên nhiên…Vì vậy công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, sử dụng giống mới có năng suất, chất lượng cao, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống chuyển biến rất chậm, nhất là đối với các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Những năm vừa qua, Trung tâm Khuyến nông- khuyến ngư tỉnh, Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn các huyện đã tổ chức nhiều chương trình tập huấn, hướng dẫn chuyển giao kỹ thuật, thực hiện các mô hình trình diễn…tại cơ sở, tuy nhiên hiệu quả chưa được như mong muốn. Nguyên nhân là do các lớp tập huấn, chuyển giao kỹ thuật không phải lúc nào cũng được duy trì thường xuyên, liên tục, trong khi đó năng lực tiếp nhận của người dân địa phương còn chậm và hạn chế. Việc thực hành các mô hình trình diễn chủ yếu vẫn do cán bộ đảm nhận, tính ỷ lại của đối tượng chính là người dân địa phương còn biểu hiện rất rõ, nên thực tế ít có mô hình được nhân rộng. Nếu có thì cũng khó đạt yêu cầu vì nhiều lý do như không đảm bảo các quy trình kỹ thuật, chi phí đầu tư thấp…Ngay như việc đưa giống lúa mới vào sản xuất, năm nào được Nhà nước hỗ trợ, trực tiếp cung ứng giống thì tỷ lệ gieo sạ giống mới cao. Khi không còn trợ giá, trợ cước người dân lại sử dụng giống cũ nên năng suất, sản lượng lúa nước hằng năm thường biến động theo các chiều hướng tăng giảm khác nhau. Thực trạng trên cho thấy, rất cần có một mạng lưới cán bộ chuyên môn tại cơ sở, thường xuyên hướng dẫn nông dân thực hành sản xuất, chuyển giao khoa học kỹ thuật, tư vấn mô hình kinh tế, ứng dụng giống mới trong sản xuất, kiểm tra đồng ruộng, kịp thời phát hiện sâu bệnh…Đặc biệt là trong việc trực tiếp tham mưu cho chính quyền địa phương xây dựng kế hoạch sản xuất, chỉ đạo lịch thời vụ xuống giống, lựa chọn các loại cây trồng, vật nuôi phù hợp.
Vai trò quan trọng của mạng lưới cán bộ khuyến nông cơ sở đã được xác định trong nhiều văn bản pháp quy. Nghị định số 02/2010/NĐ-CP ngày 08/01/2010 của Chính phủ về khuyến nông (thay thế Nghị định 56/2005/NĐ-CP) đã quy định rất chặt chẽ về “Tổ chức khuyến nông”. Theo đó ở cấp xã (xã, phường, thị trấn có sản xuất nông nghiệp) số lượng khuyến nông viên ít nhất là 01 người, đối với các xã thuộc địa bàn khó khăn ít nhất là 02 người. Hội đồng nhân dân tỉnh cũng đã có Nghị quyết số 22/2008/NQ-HĐND ngày 16/12/2008 “Thông qua Đề án hỗ trợ cán bộ tăng cường, luân chuyển, thu hút trí thức trẻ, cán bộ khuyến nông, khuyến lâm về công tác tại 14 xã trọng điểm đặc biệt khó khăn” và ngày 13/02/2009 UBND tỉnh đã có Quyết định số 16/2009/QĐ-UBND triển khai thực hiện đề án này, trong đó quy định cụ thể về trình độ chuyên môn, chế độ được hưởng…Đa phần các xã còn lại chủ yếu vẫn giữ hình thức kiêm nhiệm hoặc không chuyên trách ở cơ sở (Cán bộ Kế hoạch - Giao thông- Thuỷ lợi- Nông lâm nghiệp), có nơi còn giao cho cán bộ văn phòng, địa chính kiêm nhiệm, hưởng chế độ hỗ trợ theo Nghị quyết số 25/2008/NQ-HĐND ngày 16/12/2008 của HĐND tỉnh. Thực tiễn cho thấy lực lượng cán bộ khuyến nông ở những nơi này hoạt động kém hiệu quả, do đa số chưa qua đào tạo cơ bản, thiếu kiến thức chuyên ngành, kiêm nhiệm nhiều công việc khác nhau và chế độ hỗ trợ quá thấp.
Thiết nghĩ, cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) là nơi trực tiếp tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phát triển kinh tế- xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư… việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức nói chung quyết định hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị cơ sở, trong đó đội ngũ cán bộ chuyên môn có vai trò rất quan trọng. Đặc biệt đối với lực lượng cán bộ khuyến nông viên cơ sở hiện nay đang vừa thiếu lại vừa yếu. Trong khi đó sự nghiệp phát triển nông nghiệp nông thôn trên địa bàn đòi hỏi phải có những “chuyên gia” tại chỗ, thường xuyên, sâu sát cơ sở. Vì vậy việc củng cố, nâng cao chất lượng mạng lưới cán bộ này là một yêu cầu cấp thiết. Cần đào tạo, chuẩn hóa mạng lưới khuyến nông viên cơ sở, tối thiểu cũng phải đạt trình độ từ trung cấp chuyên ngành trở lên. Đồng thời tiếp tục mở rộng địa bàn ưu tiên ngoài 14 xã đặc biệt khó khăn, vận dụng linh hoạt chế độ phụ cấp hoặc lương theo trình độ đào tạo, thực hiện chính sách thu hút phù hợp nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn từ cơ sở đặt ra, góp phần thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn và xây dựng nông thôn mới./
TRẦN DUY TIÊN