 |
Nuôi cá lòng hồ.
|
Lâu nay, người nông dân thường nuôi nhiều loại cá, nhưng ít chú ý đến cá rô đồng. Tuy nhiên, trên thực tế cá rô đồng dễ nuôi, dễ bán và có giá trị kinh tế cao.
Nhận thấy giá trị kinh tế cao, năm nay Trung tâm Khuyến nông-khuyến ngư (KN-KN) tỉnh hỗ trợ cho một số hộ dân thôn 7, xã Đăk La (Đăk Hà) triển khai mô hình nuôi cá rô đồng. Theo anh Phan Văn Tiệp (cán bộ Trung tâm KN-KN tỉnh), để nuôi cá rô đồng hiệu quả, bà con cần phải nắm bắt một số đặc tính và kỹ thuật nuôi. Về đặc tính, cá rô đồng là loài cá dữ, ăn tạp, nhưng nghiêng về động vật. Ở trong môi trường tự nhiên, rô đồng thường ăn tôm, tép, cá con, phù du phiêu sinh vật, động vật không xương sống, côn trùng, hạt cỏ, thóc và các phụ phẩm nông nghiệp. Cá rô cái có chiều dài 12 cm trở lên là có thể sinh sản. Cá rô thường sinh sản vào mùa mưa. Đầu mùa mưa cá di chuyển từ nơi sinh sống đến những nơi vừa ngập nước sau những cơn mưa lớn, nơi có mực nước 30 - 40 cm để sinh sản. Sức sinh sản cá đạt 30- 40 vạn trứng/kg cá cái. Trứng cá thuộc loại trứng nổi và có màu vàng.
Tìm hiểu những đặc tính này của cá, để hỗ trợ cho kỹ thuật nuôi. Nuôi cá rô cần có ao nuôi, mực nước ao sâu 1,2 - 1,5 m. Ao nuôi phải gần nguồn nước và có cống để chủ động cấp thoát nước. Mặt ao phải thoáng, không có bóng cây che, bờ ao không bụi rậm. Bờ ao cao hơn mực nước và nên có lưới cao 0,2- 0,4m bao quanh bờ ao để phòng ngừa cá ra ngoài. Trước khi thả cá, ao phải được bơm cạn nước, bắt hết cá tạp, lấp hang hốc, nạo vét bùn đáy ao nhưng còn chừa lại lớp bùn dày 15 - 20 cm; vệ sinh sạch cây cỏ quanh bờ ao; bón vôi 7 - 10 kg/100 m2. Sau khi phơi ao từ 3- 5 ngày, tiến hành lấy nước vào 1/3 ao. Sau khi lấy nước vào ao, bón phân đạm urê và super phosphate theo tỷ lệ N/P=2/1 với liều lượng 200 g/100 m3 nước (hòa tan phân trong nước và té đều khắp mặt ao); phân xanh (gồm những loại lá cây họ đậu hoặc lá so đũa) với liều lượng 10 - 15 kg/100 m2 ao (phân xanh được chia làm nhiều bó và dùng cây dìm xuống đáy ao không cho nổi lên mặt nước); phân chuồng ủ hoai mục khoảng 25 - 30 kg/100 m2 ao (rải đều ở mặt đáy ao trong lúc phơi ao). Sau khi bón phân 3 - 5 ngày nước ao có màu xanh đọt chuối non thì tiến hành thả cá và nâng mực nước lên từ từ, sau 5 - 7 ngày mực nước cao đạt yêu cầu.
Cá rô giống khi thả có kích thước 5 - 6 cm, trọng lượng trung bình 250 - 300 con/kg (cá mập, khoẻ, không xây xát, không dị hình, không bệnh tật). Mật độ nuôi: nuôi bán thâm canh thả 15 - 20 con/m2; nuôi thâm canh thả 30 - 40 con/m2. Cá rô có thể thả nuôi quanh năm nếu chủ động được nước và con giống (trong một ao có thể nuôi 2 vòng trong năm). Khi thả cá, bà con nên thả cá vào ao nuôi lúc sáng sớm ( 6 - 7 giờ) hay chiều mát ( 16 - 18 giờ) nhằm tránh nhiệt độ cao của môi trường sẽ ảnh hưởng xấu đến cá do cá bị mệt trong quá trình vận chuyển. Nếu vận chuyển cá bằng bao nilon có bơm oxy, trước khi thả cá ra, thả bao nilon trên mặt nước 10 - 15 phút tạo cân bằng nhiệt độ nước bên trong bao và ngoài ao nuôi tránh cá bị sốc do chênh lệch nhiệt độ. Khi thả, mở miệng bao cho cá ra từ từ. Nếu vận chuyển bằng phương tiện hở như thau, xô … trước khi thả cho nước vào từ từ đến khi nước ngập đầy dụng cụ chứa, cho cá tự bơi ra đến hết.
Thức ăn cho cá rô gồm: cám gạo, cám ngô, tấm... và bột cá (cá tươi hoặc các phế phẩm của nhà máy chế biến thủy sản) xay nhỏ. Tỷ lệ thức ăn: 60% cám + 40% bột cá hay cá tươi xay. Khẩu phần ăn bằng 5 - 7% trọng lượng đàn cá/ngày. Thức ăn được kết dính bằng bột hay nấu chín, vo viên và đặt trong sàn ăn. Sàn ăn được đặt cố định trong ao, nên đặt nhiều sàn ăn tránh sự cạnh tranh làm thức ăn rơi rớt do lượng cá tập trung nhiều vào một chỗ (khoảng cách giữa hai sàn ăn 5 - 7 m). Cũng có thể cho cá ăn thức ăn hỗn hợp loại viên nổi (tỉ lệ Protein tối thiểu là 18%). Mỗi ngày cho ăn 2 lần vào sáng sớm ( 6 - 7 giờ) và chiều mát ( 16- 18 giờ), mỗi lần 1/2 khẩu phần ngày. Ngoài thức ăn trên, chúng ta nên bổ sung và tận dụng thêm các thức ăn dư thừa từ chăn nuôi, các loại rau cỏ hoăc các chất thải từ trong chăn nuôi.
Khi nuôi, bà con nên thường xuyên kiểm tra cống, lưới bao quanh bờ ao nếu có hư rách phải sửa vá ngay, đặc biệt chú ý vào giai đoạn cá có trứng (cá có thể dùng nắp mang leo lên bờ thoát ra ngoài). Trên mặt nước ao thả 1/10 diện tích rau muống hay bèo lục bình để hấp thu dinh dưỡng dư thừa, hạn chế ô nhiễm môi trường nước trong ao. Thường xuyên kiểm tra cá ăn để điều chỉnh cho hợp lý. Nước trong ao rất dễ bị nhiễm bẩn do thức ăn tạo nên, do đó bà con nên thay nước hàng ngày. Nếu ao xa nguồn nước thì định kỳ 10 - 15 ngày thay 1/2 lượng nước trong ao.
Sau 4 - 5 tháng nuôi, cá đạt trọng lượng 50 - 100 g/con thì thu hoạch. Khi thu hoạch nên thu hết một lần (tát cạn ao, bắt hết cá). Sau đó ao được cải tạo lại để chuẩn bị đợt nuôi kế tiếp. Cũng có thể thu tỉa bằng cách dùng lưới kéo hay tát cạn bắt những con cá lớn có giá trị thương phẩm cao để bán, những con cá còn nhỏ để lại nuôi tiếp. Lúc này có thể chuyển lượng cá còn lại sang nuôi ở một ao khác có diện tích nhỏ hơn để tận dụng ao cũ thả nuôi giống mới với số lượng lớn. Năng suất cá rô đồng nuôi có thể đạt từ 3-10 tấn/ha/năm.
Một số bệnh thường gặp ở cá rô là: bệnh do nấm thủy my (nấm nước ở cá) và bệnh lở loét. Bệnh thường xảy ra vào mùa mưa và thời tiết lạnh khi nhiệt độ xuống thấp (18 – 20oC), đặc biệt khi cá bị xây xát (do đánh bắt hoặc vận chuyển) hoặc do viêm nhiễm ngoài da (do bệnh ghẻ lở hoặc do ký sinh trùng ký sinh). Khi bị bệnh nấm thủy my, trên da cá xuất hiện vùng trắng xám tua tủa những sợi nấm nhỏ, mềm tạo thành những búi trắng như bông có thể nhìn thấy bằng mắt thường (để cá bệnh trong nước dễ quan sát hơn). Cách phòng trị: dùng muối ăn liều lượng 2 - 3 kg/m3 nước tắm cá trong 24 giờ, tắm cá liên tục trong 3 - 5 ngày. Còn bị bệnh lở loét, cá thường lờ đờ, bơi nhô đầu lên mặt nước, có các đốm đỏ phát triển ở đầu, thân, các vây và đuôi. Cách phòng trị: dùng vôi tạt xuống ao với liều lượng 2 kg/100 m3, 2 tuần 1 lần; hoặc dùng muối ăn với liều lượng 2 - 3% tắm cho cá 5 - 15 phút; hoặc dùng thuốc tím với liều lượng 10 g/m3 tắm cho cá trong thời gian 10 - 30 phút; hoặc dùng kháng sinh có chứa Oxytetracyline, trộn vào thức ăn cho cá ăn liên tục 5 ngày.
Bài và ảnh: Văn Nhiên
(Theo tư liệu Trung tâm Khuyến nông-khuyến ngư tỉnh)