Ngày 12-8-1991, kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VIII đã ra Nghị quyết giải thể tỉnh Gia Lai-Kon Tum và thành lập lại 2 tỉnh Gia Lai và Kon Tum. Trong điều kiện còn nhiều khó khăn, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát và hỗ trợ kịp thời của Trung ương; Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã phát huy truyền thống cách mạng và những tiềm năng, thế mạnh sẵn có, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, cần cù sáng tạo, từng bước xây dựng tỉnh Kon Tum ổn định và phát triển, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng.
Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh tăng khá cao( giai đoạn 1992-1995 đạt 9,15%/năm; 1996-2000 đạt 9,85%/năm; 2001-2005 đạt 11%/năm; 2005-2010 đạt 14,71%/năm). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tăng dần tỷ trọng công nghiệp-xây dựng (Năm 1992, tỷ trọng công nghiệp-xây dựng: 7,4%. Năm 2005, tăng lên 19,04%. Đến 2010 tỷ trọng công nghiệp- xây dựng 24,1%). Thu nhập bình quân đầu người/năm tăng liên tục qua các năm: Năm 1992 là 88,6 USD; năm 2000 đạt 182 USD, năm 2005 đạt 301 USD. Đến năm 2010 đạt 707 USD, vượt 28% chỉ tiêu Nghị quyết Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII.
Tổng thu ngân sách nhà nước tại địa bàn tăng nhanh. Năm 1991 tổng thu ngân sách mới đạt 25-30% nhu cầu chi thường xuyên; năm 2000 tổng thu ngân sách nhà nước tại địa bàn gần 82 tỷ đồng; đến năm 2005 đạt gần 270 tỷ đồng và năm 2010 đạt gần 1.400 tỷ đồng.
Nông lâm nghiệp và thủy sản phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá. Diện tích trồng cây cao su từ 886 ha năm 1991 tăng lên 42.125 ha năm 2010. Diện tích cà phê đạt khoảng 11.668 ha. Chăn nuôi tiếp tục phát triển, một số cơ sở sản xuất giống vật nuôi chất lượng cao được hình thành. Nông dân nhiều nơi tích cực đầu tư, liên kết với các doanh nghiệp để trồng rừng, góp phần nâng độ che phủ của rừng từ 65,5% lên 66,6%.
Về công nghiệp, giai đoạn 1996-2000 chỉ đạt 14,5%/năm; 2001-2005 đạt 16,76%/năm; giai đoạn 2005-2010 công nghiệp-xây dựng tăng trưởng bình quân 25,7% năm; trong đó, giá trị sản xuất công nghiệp đến 2010 tăng trên 6 lần so với năm 2005. Hiện tỉnh có trên 3.050 cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, tăng 28,3% so với năm 2005. Các công trình thuỷ điện Sê San 3, Sê San 3a, Sê San 4, Plei Krông và một số nhà máy thuỷ điện nhỏ với tổng công suất trên 839 MW đã đi vào hoạt động. Nhà máy chế biến bột giấy và giấy Tân Mai, nhiều công trình thuỷ điện vừa và nhỏ đang được tích cực triển khai, thi công.
Thương mại-dịch vụ có bước phát triển, giai đoạn 1996-2000: 6,8%/năm; giai đoạn 2001-2005: 11,18%/năm; giai đoạn 2006-2010 tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 16,49% ( năm 2010 là 17,45%). Năm 1992 kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh mới đạt 1,1 triệu USD, năm 2005 đã đạt khoảng 11,4 triệu USD, đến 2010 kim ngạch xuất khẩu đạt 59,151 triệu USD đạt gần 200% chỉ tiêu. Một số điểm du lịch văn hoá, lịch sử, sinh thái, nghỉ dưỡng đã được quy hoạch và từng bước đầu tư.
Ba vùng kinh tế động lực, tiềm năng về thuỷ điện, khoáng sản và đất lâm nghiệp đã thu hút được nhiều doanh nghiệp đến tìm hiểu và đầu tư vốn với quy mô khá lớn: Tại 3 vùng động lực đã có 111 dự án đang được triển khai thực hiện (thành phố Kon Tum: 41 dự án, huyện Kon Plông: 45 dự án, huyện Ngọc Hồi: 15 dự án), với tổng vốn đăng ký là 15.736 tỷ đồng, vốn thực hiện đến nay đạt 1.457 tỷ đồng. Kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân phát triển khá về số lượng; đến nay, toàn tỉnh có 1.000 doanh nghiệp (tăng gấp 5 lần) và 80 HTX, tăng 26 (50%) HTX so với năm 2005; Ngoài ra còn có 1.130 nhóm hộ và 70 tổ hợp tác. Năng lực cạnh tranh của tỉnh từ nhóm tương đối thấp lên nhóm khá: từ vị trí 61/64 (năm 2006) lên 51/63 (năm 2009) và vị trí 39/63 năm 2010.
Về văn hoá, xã hội: Công tác xoá đói giảm nghèo được đẩy mạnh, góp phần ổn định cuộc sống của người nghèo trên địa bàn tỉnh. Năm 1991 tỷ lệ hộ đói, nghèo của toàn tỉnh là trên 65%, đến 2005 giảm xuống còn 9,23% (theo chuẩn nghèo năm 2005 là 38,63%) và đến 2010 giảm xuống còn khoảng 16,34%(chuẩn nghèo năm 2005).
Đến nay 100% số xã đã có trường THCS, đã có 80 trường đạt chuẩn Quốc gia. Đến năm 2010 đã xây dựng được 5.980 phòng học. Năm 1991 mới chỉ có 60% số người trong độ tuổi được cắp sách đến trường, tỷ lệ mù chữ trong độ tuổi 15 - 25 là 46,6%, thì đến năm 2004 giảm xuống còn 6,3%. Số học sinh có mặt đầu năm học năm 2005 là 122.841 học sinh thì đến năm 2010 là 134.037 học sinh. Năm 2000, tỉnh được công nhận phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ và đến năm 2010 tỉnh đã hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
Công tác y tế và chăm sóc sức khoẻ nhân dân có nhiều tiến bộ. Khi mới thành lập lại tỉnh, cơ sở vật chất của ngành y tế thiếu thốn nghiêm trọng; đội ngũ cán bộ y tế vừa thiếu, vừa yếu; trang thiết bị chuyên môn thiếu thốn, lạc hậu, nhiều xã “trắng” về y tế (không có trạm và cán bộ y tế). Đến nay, mạng lưới y tế được xây dựng, củng cố và kiện toàn từ tỉnh đến cơ sở. Đã có 6,3 bác sỹ/vạn dân; 83,5% số trạm y tế xã có bác sỹ; 98% trẻ em dưới 01 tuổi được tiêm chủng đầy đủ. Bệnh viện đa khoa khu vực Ngọc Hồi đã hoàn thành, đi vào hoạt động và phát huy hiệu quả. Tỷ lệ trạm y tế xã có bác sĩ tăng từ 40% lên 55,7%.
Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" phát triển cả về số lượng và chất lượng; số thôn, làng, khu dân cư và hộ gia đình được công nhận đạt tiêu chuẩn văn hóa tăng mạnh: Toàn tỉnh hiện có 402 làng văn hóa, tăng 123 làng (44%) so với năm 2005; có 67.447 hộ được công nhận là gia đình văn hóa, tăng 17.875 hộ (36%) so với năm 2005. Tỷ lệ hộ nghe Đài tiếng nói Việt Nam đạt 100%; tỷ lệ hộ được xem Đài Truyền hình Việt Nam đạt 84%; có 69% số xã có thư viện, bưu điện văn hoá xã. Đến nay một số công trình văn hoá, phúc lợi công cộng như Bảo tàng tổng hợp, thư viện, công viên; các nhà văn hoá Công đoàn, Thanh thiếu nhi, Quảng trường 16-3... được đầu tư xây dựng. Đã khôi phục và phục dựng 11 loại hình lễ hội văn hóa cổ truyền tiêu biểu của 6 dân tộc bản địa, các loại hình sinh hoạt cồng chiêng-nhạc cụ dân tộc, hát dân ca dân vũ, diễn xướng dân gian. Các tôn giáo được Nhà nước công nhận đều được tạo điều kiện thuận lợi để hoạt động theo đúng quy định của pháp luật.
Về kết cấu hạ tầng: Sau 20 năm kể từ ngày thành lập lại tỉnh, kết cấu hạ tầng của tỉnh đã phát triển mạnh, từng bước đáp ứng các nhu cầu dân sinh và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Mặc dù bị thiệt hại nặng nề sau cơn bão số 9 năm 2009 với tổng kinh phí để khắc phục 420 công trình bị hư hỏng là 231,6 tỷ đồng. Đến cuối năm 2010 đã hoàn thành và đưa vào sử dụng 356 công trình(84,76% tổng số công trình), số công trình còn lại đang triển khai thực hiện. Tổng số cầu treo bị hư hỏng, cuốn trôi là 170 cầu, đã sửa chữa đưa vào sử dụng 44 cầu treo, đang triển khai xây dựng mới 8 cầu. Nhiều tuyến giao thông trọng điểm được khởi công xây dựng, nâng cấp; hệ thống đường liên xã cơ bản bảo đảm đi lại thuận lợi, thông suốt, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Điện lưới đã đến 96,2% thôn, làng và có trên 98% số hộ được sử dụng điện; trên 72% hộ được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh. Thị tứ, thị trấn, trung tâm các huyện, xã và cụm xã được đầu tư, mở rộng và ngày càng khang trang.
Về lĩnh vực quốc phòng-an ninh: Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, nhân dân các dân tộc trong tỉnh đoàn kết một lòng quyết tâm xây dựng tỉnh Kon Tum vững mạnh; đồng thời luôn nêu cao cảnh giác, bảo vệ biên giới và nội địa, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch và bọn phản động thực hiện "diễn biến hòa bình" đối với Tây Nguyên và Kon Tum. Các hoạt động tư pháp và cải cách tư pháp được thực hiện đúng quy định, lộ trình; công tác điều tra, truy tố, xét xử, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo có nhiều tiến bộ; đấu tranh phòng chống tham nhũng được tích cực triển khai, đạt được một số kết quả nhất định. Hệ thống chính trị ở cơ sở được củng cố, kiện toàn từng bước, tạo sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị phục vụ tốt nhiệm vụ quốc phòng-an ninh. Công tác xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng chính trị, nghiệp vụ và khả năng sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng vũ trang được chú trọng. Lực lượng vũ trang của tỉnh lớn mạnh không ngừng qua các năm; có sự phối hợp chặt chẽ giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, bộ đội biên phòng, công an và các lực lượng dân quân tự vệ hình thành thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững chắc, bảo đảm tốt công tác bảo vệ chủ quyền biên giới, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Quan hệ đối ngoại, nhất là với các tỉnh giáp biên của nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào và Vương quốc Campuchia được củng cố, phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Việc phân giới, cắm mốc trên tuyến biên giới với Vương quốc Campuchia và tôn tạo, tăng dày cột mốc với Nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào cơ bản được triển khai đúng tiến độ; những vấn đề chưa thống nhất giữa các bên được giải quyết kịp thời, bảo đảm giữ vững chủ quyền quốc gia và quan hệ hữu nghị truyền thống tốt đẹp. Các hoạt động tiếp xúc, đối thoại với các đoàn ngoại giao, tổ chức quốc tế được thực hiện đúng theo quan điểm, chính sách đối ngoại của Đảng, pháp luật của Nhà nước và điều kiện cụ thể của địa phương.
Về xây dựng Đảng: Trong 20 năm qua, công tác xây dựng Đảng được coi là nhiệm vụ then chốt và thường xuyên của Đảng bộ. Các tổ chức đảng trong toàn Đảng bộ ngày càng được củng cố, hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động. Công tác đảng viên được coi trọng cả về số lượng và chất lượng. Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" qua hơn 4 năm thực hiện được triển khai nghiêm túc.
Đa số tổ chức cơ sở đảng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, giữ vững được vai trò hạt nhân chính trị; số TCCSĐ hoàn thành nhiệm vụ giảm từ 27,3% năm 2006 xuống còn 5,53% năm 2009; số TCCSĐ yếu kém giảm từ 2,13% xuống còn 0,81%; số TCCSĐ xếp loại hoàn thành tốt nhiệm vụ tăng từ 70,57% lên 93,66%, trong đó số trong sạch, vững mạnh chiếm 72,85%. Số đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ 82,19% tăng 8,59% so với cuối năm 2005 (73,6%), trong đó đảng viên đủ tư cách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ 17,07%; đảng viên vi phạm tư cách 0,95% giảm 0,39% so với năm 2005 (1,34%). Kết nạp đảng viên mới vượt 24,31% mục tiêu năm 2005 đề ra; số thôn, làng chưa có đảng viên giảm từ 9,89% (81/819) năm 2005 xuống còn 2,52% (21/831); số thôn, làng chưa có tổ chức đảng giảm từ 20,76% (170/819) xuống còn 8,66% (72/831).
Về xây dựng chính quyền: Hoạt động của Chính quyền cấp có những chuyển biến rõ nét. Hiệu lực và hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp được nâng lên rõ rệt, nhất là trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của địa phương và đã thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Chất lượng công tác giám sát và tiếp xúc cử tri ngày càng được nâng lên, đã có sự phối hợp chặt chẽ giữa HĐND ba cấp, xem xét và kiến nghị giải quyết kịp thời các kiến nghị của cử tri. Năng lực quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện của UBND và các cơ quan quản lý nhà nước tiếp tục được nâng lên.
Xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể nhân dân: Công tác dân vận của Đảng được triển khai thực hiện bằng nhiều lực lượng, nhiều hình thức sát hợp, nhất là trong việc giải quyết các điểm nóng, các vấn đề phát sinh ở cơ sở, góp phần củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc trong tỉnh. Mặt trận và các đoàn thể chính trị từ tỉnh đến cơ sở tiếp tục được củng cố, kiện toàn; phương thức hoạt động có đổi mới; các phong trào thi đua, các cuộc vận động của mặt trận và các tổ chức thành viên ngày càng phát triển, đi vào chiều sâu, hướng về khu dân cư đem lại hiệu quả ngày càng thiết thực, gắn với hoạt động cứu trợ, từ thiện nhân đạo ... Đến nay, 100% thôn làng, tổ dân phố có tổ chức Mặt trận và các đoàn thể; 82,3% khu dân cư đạt tiêu chuẩn khu dân cư tiên tiến, vượt 2,3% mục tiêu. Quy chế dân chủ ở cơ sở đã được triển khai ở tất cả các loại hình và thực hiện có chất lượng hơn.
Phát huy thành tựu đã đạt được, Đảng bộ, quân và dân các dân tộc tỉnh Kon Tum phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Kon Tum lần thứ XIV: "Tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ và hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền; củng cố và phát huy cao nhất sức mạnh của khối đại đoàn kết các dân tộc; khai thác và sử dụng tốt các nguồn lực, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo đảm duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững với cơ cấu hợp lý. Nâng cao rõ rệt chất lượng nguồn nhân lực và mức sống của nhân dân. Giữ vững ổn định chính trị; an ninh, trật tự trong mọi tình huống, không để bị động bất ngờ. Xây dựng tỉnh Kon Tum cơ bản thoát nghèo vào năm 2015"./.
Nguyễn Phan
(Nguồn: Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ)