Thứ hai, Ngày 28/04/2025 -

Kết quả cung cấp dịch vụ công trực tuyến và số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính
Ngày đăng: 09/05/2024  16:00
Mặc định Cỡ chữ
Tính đến hết tháng 4 năm 2024, các bộ, ngành, địa phương đã cung cấp 4.510 dịch vụ công trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công quốc gia (chiếm 71,7% tổng số 6.287 thủ tục hành chính), trong đó có 3.688 dịch vụ công trực tuyến toàn trình.

Về cung cấp dịch vụ công trực tuyến

 

Tính đến hết tháng 4 năm 2024, các bộ, ngành, địa phương đã cung cấp 4.510 dịch vụ công trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công quốc gia (chiếm 71,7% tổng số 6.287 thủ tục hành chính), trong đó có 3.688 dịch vụ công trực tuyến toàn trình.

 

Theo tổng hợp kết quả đánh giá Bộ chỉ số phục vụ người dân, doanh nghiệp theo Quyết định 766/QĐ-TTg ngày 27/6/2022 của Thủ tướng Chính phủ, tỷ lệ hồ sơ trực tuyến của các bộ, ngành, địa phương có sự cải thiện rõ rệt, cụ thể: Ở địa phương đạt 47,8% (4.954.457/10.364.973) trong tổng số hồ sơ TTHC, tăng 21,9% so với cùng kỳ năm 2023; ở bộ, ngành đạt 49,4% (8.589.847/17.388.356) trong tổng số hồ sơ TTHC, tăng 19% so với cùng kỳ năm 2023. Về thanh toán trực tuyến, tỷ lệ thanh toán trực tuyến nghĩa vụ tài chính trong thực hiện TTHC, dịch vụ công tăng, cụ thể: Ở bộ, ngành đạt 24,11% (134.765/558.853) trên tổng số hồ sơ TTHC có yêu cầu nghĩa vụ tài chính; ở địa phương đạt 43,11% (2.731.389/6.335.726) trên tổng số hồ sơ TTHC có yêu cầu nghĩa vụ tài chính, tăng 30,48% so với cùng kỳ năm 2023. Tính trung bình mỗi ngày, có khoảng 120 nghìn hồ sơ TTHC trực tuyến và 60 nghìn giao dịch thanh toán trực tuyến được thực hiện từ Cổng Dịch vụ công quốc gia.

 

Để tiếp tục nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công trực tuyến; theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, đến nay, đã có 15/22 bộ, ngành đã hoàn thành công bố danh mục TTHC thuộc phạm vi quản lý có đủ điều kiện thực hiện dịch vụ công trực tuyến toàn trình để tổ chức thực hiện thống nhất trong toàn quốc. Các bộ, ngành, địa phương đã tập trung triển khai tái cấu trúc quy trình, cung cấp các dịch vụ công trực tuyến thiết yếu theo Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ (Đề án 06), Quyết định số 422/QĐ-TTg ngày 04/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 206/QĐ-TTg ngày ngày 28/02/2024 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, đã hoàn thành, cung cấp 25/25 dịch vụ công theo Đề án 06/CP và 17/28 dịch vụ công theo Quyết định số 422/QĐ-TTg ngày 04/4/2022 trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia; trong đó, 23/25 dịch vụ công thiết yếu đã được thực hiện toàn trình. Hầu hết các dịch vụ công thiết yếu được tái cấu trúc quy trình, cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính trên cơ sở liên thông điện tử, tái sử dụng dữ liệu số hóa giúp giảm thủ tục, thời gian, chi phí thực hiện thủ tục hành chính như: Dịch vụ công trực tuyến đăng ký, cấp biển số xe (dựa trên kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan đăng kiểm, hải quan, thuế, công an giúp cắt giảm được thủ tục xác nhận tờ khai nguồn gốc xe đối với xe nhập khẩu, giảm các giấy tờ phải nộp, thông tin phải điền của chủ xe); dịch vụ công toàn trình Đổi giấy phép lái xe (dựa trên kết nối, chia sẻ dữ liệu giấy khám sức khỏe của các cơ sở khám chữa bệnh thông qua hệ thống thông tin của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, dữ liệu xử lý vi phạm hành chính của Bộ Công an giúp giảm thời gian, thủ tục xác minh, kiểm tra và giấy tờ phải nộp,…); 02 nhóm dịch vụ công trực tuyến liên thông “Đăng ký khai sinh - Đăng ký thường trú - Cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ dưới 6 tuổi” và “Đăng ký khai tử - Xóa đăng ký thường trú - Trợ cấp mai táng, hỗ trợ chi phí mai táng” (giúp cắt giảm hồ sơ, giấy tờ, thời gian thực hiện, chi phí đi lại của nhóm khai sinh từ tổng số 21 ngày làm việc xuống còn 4 ngày làm việc; nhóm khai tử từ tổng số 25 ngày làm việc xuống còn 10 ngày làm việc),… Một số thủ tục hành chính có tỷ lệ hồ sơ trực tuyến cao như: Thông báo lưu trú (99,98%), Cấp điện mới từ lưới điện hạ áp (86,97%), Thay đổi chủ thể hợp đồng mua bán điện (90,6%)... Trong đó, riêng việc cung cấp 25/25 dịch vụ công thiết yếu theo Đề án số 06 đã giúp hằng năm tiết kiệm cho nhà nước, xã hội gần 3.500 tỷ đồng.

 

Mặt khác, đã hoàn thành việc kết nối 63/63 Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp tỉnh, 21/21 Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp bộ với VNeID thông qua Cổng dịch vụ công quốc gia. Theo đó, công dân Việt Nam có thể đăng nhập bằng tài khoản định danh điện tử VNeID để thực hiện dịch vụ công trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công quốc gia và Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp bộ, cấp tỉnh. Đồng thời, công dân có thể sử dụng tài khoản định danh điện tử để chuẩn hóa, làm sạch các tài khoản dịch vụ công khi đăng nhập. Đến nay, Cổng Dịch vụ công quốc gia đã có 14.898.369 tài khoản điện tử, trong đó có hơn 10 triệu tài khoản điện tử của cá nhân đã được chuyển đổi từ tài khoản Cổng Dịch vụ công quốc gia sang sử dụng tài khoản VneID. Bên cạnh đó, Văn phòng Chính phủ cũng đã kết nối các hệ thống do Văn phòng Chính phủ triển khai như: Hệ thống thông tin báo cáo của Chính phủ, Hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu theo dõi việc thực hiện nhiệm vụ do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao,… với VNeID thông qua Cổng Dịch vụ công quốc gia giúp cán bộ tại các bộ, ngành, địa phương đăng nhập, sử dụng tài khoản VNeID để thực hiện nhiệm vụ trên hệ thống nghiệp vụ. Bên cạnh đó, để bảo đảm thực hiện chuyển đổi sang sử dụng VNeID là tài khoản duy nhất trong thực hiện thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công trực trực tuyến kể từ ngày 01/7/2024 theo quy định của Chính phủ tại Nghị định số 59/2022/NĐ-CP, Tổ công tác Cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ đã tổ chức Phiên họp chuyên đề để đánh giá tình hình, kết quả triển khai thực hiện VNeID và giải pháp chuyển đổi sử dụng một loại tài khoản duy nhất là VNeID trong thực hiện thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ hành chính công trên môi trường điện tử. Theo báo cáo của Bộ Công an, đến nay, đã cấp trên 86 triệu thẻ căn cước công dân gắn chíp và thu nhận trên 75,16 triệu hồ sơ định danh điện tử, kích hoạt trên 53,88 triệu tài khoản (tỷ lệ kích hoạt trên tổng số hồ sơ thu nhận đạt 71,68%), trung bình 01 ngày có hơn 1,5 triệu lượt truy cập, sử dụng VNeID.

 

Về kết quả số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính

 

Số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính là một giải pháp quan trọng để đổi mới công tác thực hiện số hóa dữ liệu trên cơ sở gắn kết trực tiếp với việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức trong tiếp nhận, giải quyết thủ tục hành chính nhằm hình thành cơ sở dữ liệu “đúng, đủ, sạch, sống”, tạo điều kiện căn bản cho việc tái cấu trúc, xây dựng dịch vụ công trực tuyến. Về pháp lý, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 107/2021/NĐ-CP bổ sung quy định về số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC trong tiếp nhận, giải quyết TTHC của cán bộ, công chức, viên chức; đồng thời, Văn phòng Chính phủ đã ban hành Thông tư số 01/2023/TT-VPCP quy định một số nội dung và biện pháp thi hành trong số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính và thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử. 100% bộ, ngành, địa phương đã ban hành Kế hoạch số hóa kết quả giải quyết TTHC đang có hiệu lực và triển khai nâng cấp, hoàn thiện Hệ thống thông tin giải quyết TTHC. Bên cạnh đó, đến hết tháng 4/2024, Ban Cơ yếu Chính phủ đã cung cấp trên 943.000 chứng thư số cho các bộ, ngành, địa phương trong cả nước, trong đó đối với cơ quan cấp bộ, ngành, địa phương đã cấp 93 (đạt 100%) chứng thư số cho tổ chức và 409 (đạt khoảng 94.9%) chứng thư số cho lãnh đạo; đối với cấp cục, vụ, sở và tương đương đã cấp 5.198/5.318 (đạt khoảng 97.74%) chứng thư số cho tổ chức và 18.085 (đạt khoảng 98.33%) chứng thư số cho lãnh đạo; đối với địa phương, cấp xã và tương đương đã cấp và tương đương đã cấp 10.487/10.614 (đạt khoảng 98,81%) chứng thư số cho tổ chức và 28.056 (đạt khoảng 75.52%) chứng thư số cho lãnh đạo; đã phối hợp, triển khai trên 59.000 thiết bị SIM ký số trên thiết bị di động cho 30 bộ, ngành Trung ương và 63 địa phương để phục vụ cho công tác số hóa. Theo đó, việc số hóa triển khai đã có một số kết quả khả quan, cụ thể: Tỷ lệ số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC tại các bộ, ngành đạt 25,66% (27.863.368/108.552.912 hồ sơ), của địa phương đạt 29,74% (19.996.232/67.235.985 hồ sơ); Tỷ lệ hồ sơ cấp kết quả bản điện tử có giá trị pháp lý để tái sử dụng tại các bộ, ngành đạt 25,68% (27.884.317 kết quả giải quyết TTHC/108.552.912 kết quả cần cấp), địa phương đạt 34,85% (23.433.546 kết quả giải quyết TTHC/67.235.985 hồ sơ kết quả cần cấp). Riêng 04 tháng đầu năm 2024, tỷ lệ số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC của Bộ là 49,5%, tăng 23% so với cùng kỳ năm 2023, của địa phương đạt 55%, tăng 26% so cùng kỳ năm 2023; Tỷ lệ hồ sơ cấp kết quả bản điện tử có giá trị pháp lý để tái sử dụng tại bộ, ngành đạt 49,6% tăng 23,2% so với cùng kỳ năm 2023, tại địa phương đạt 60,5%, tăng hơn 25,5% so với cùng kỳ năm 2023. Kết quả này góp phần xây dựng, đưa vào vận hành các cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành như: dân cư, bảo hiểm xã hội, đăng ký doanh nghiệp, hộ tịch điện tử, giấy phép lái xe,...

 

Một số bộ, ngành, địa phương thực hiện tốt như: Bộ Công an, Bộ Tài chính (Thuế, Hải quan), Bộ Giao thông vận tải (quản lý phương tiện và người lái), Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Đăng ký doanh nghiệp), Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bắc Giang, Thanh Hóa, Cà Mau, Thái Nguyên, Bình Định, Quảng Trị, Lâm Đồng, Bình Dương,…

 

Bên cạnh đó, việc khai thác tài nguyên dữ liệu số hóa phục vụ tái cấu trúc quy trình, cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính theo hướng người dân, doanh nghiệp chỉ cung cấp thông tin một lần cho cơ quan nhà nước đã được các bộ, ngành, địa phương quan tâm triển khai có hiệu quả hơn. Thực hiện Đề án 06, 18 bộ, ngành và 63/63 địa phương đã hoàn thành kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với Hệ thống thông tin giải quyết TTHC phục vụ giải quyết TTHC, cung cấp dịch vụ công như: xác thực, định danh, bỏ sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy,… Tỷ lệ tra cứu, xác thực, khai thác thông tin dân cư phục vụ giải quyết TTHC ngày càng tăng, ví dụ trong tháng 4/2024, đã tiếp nhận 1.534.864.111 yêu cầu để tra cứu, xác thực thông tin (tăng hơn 15,96 triệu yêu cầu so với tháng 3/2024); 600.009.022 yêu cầu đồng bộ thông tin, đồng bộ thành công 269.247.289 thông tin công dân vào dữ liệu dân cư,… giúp tiết kiệm chi phí thực hiện các thủ tục kiểm tra xác minh, sao in hồ sơ, giấy tờ tùy thân,…; đã tích hợp để thay thế thẻ Bảo hiểm y tế bằng căn cước công dân gắn chíp điện tử trong thực hiện thủ tục khám chữa bệnh tại 100% cơ sở khám chữa bệnh BHYT; tích hợp 2,2 triệu dữ liệu đăng ký phương tiện, 10,2 triệu dữ liệu giấy phép lái xe trên tài khoản định danh điện tử VNeID; thực hiện đồng bộ, làm sạch dữ liệu của đã xác thực hơn 96,4 triệu thông tin nhân khẩu trong Cơ sở dữ liệu do Bảo hiểm xã hội Việt Nam quản lý, trong đó có khoảng 86,7 triệu người đang tham gia, thụ hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, chiếm 97,6% tổng số người tham gia (không bao gồm lực lượng vũ trang, thân nhân quân đội) với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, tạo cơ sở thuận lợi cho việc thực hiện các thủ tục hành chính lĩnh vực bảo hiểm xã hội,… Trên cơ sở kết nối, chia sẻ dữ liệu, các bộ, ngành, địa phương cũng tập trung tái cấu trúc quy trình TTHC (bao gồm cả TTHC nội bộ) để giảm TTHC, các bước thực hiện, hồ sơ, giấy tờ, thông tin phải nộp hoặc khai báo, giúp giảm công việc, thời gian, chi phí thực hiện của không chỉ người dân, doanh nghiệp mà cả cán bộ, công chức, viên chức như: Đang triển khai thí điểm cấp Phiếu lý lịch tư pháp trên VNeID tại Thành phố Hà Nội và Thừa Thiên Huế; Thanh toán nghĩa vụ tài chính trong thực hiện TTHC về đất đai cho người dân, doanh nghiệp trên cơ sở kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa Cơ sở dữ liệu Thuế, Hệ thống thông tin giải quyết TTHC cấp tỉnh, Cổng Dịch vụ công quốc gia,…

 

Một số bộ, ngành, địa phương đã chủ động nghiên cứu, triển khai các giải pháp kết nối, chia sẻ tại bộ, ngành, địa phương giúp việc triển khai thực hiện thủ tục hành chính, dịch vụ công trực tuyến thuận lợi, hiệu quả hơn như: (1) Tỉnh Bình Định thực hiện kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính với Hệ thống thông tin của các bệnh viện, trường học, doanh nghiệp cấp nước, vệ sinh môi trường trên địa bàn tỉnh giúp người dân Bình Định thực hiện thanh toán trực tuyến viện phí, phí trên Hệ thống thanh toán trực tuyến của Cổng Dịch vụ công quốc gia; (2) Tỉnh Vĩnh Phúc xây dựng Cơ sở dữ liệu quản lý lao động nước ngoài làm việc trên địa bàn tỉnh trên cơ sở số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính và kết nối, chia sẻ dữ liệu với các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh giúp việc quản lý và giải quyết có hiệu quả các thủ tục hành chính liên quan đến người nước ngoài, nhất là các dịch vụ công trực tuyến về cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài trên địa bàn tỉnh thuận lợi, hiệu quả hơn,…/.

 

Trịnh Minh