 |
Chiến sỹ quân tình nguyện VN Phan Đức Luận
trong trang phục quân đội giải phóng Pa-Thét Lào tại
Sầm Nưa (Lào) năm 1965 (Ảnh nhân vật cung cấp).
|
Một buổi chiều thứ 7 trong căn nhà ấm cúng của ông ở số 100 đường Lê Quý Đôn, thành phố Kon Tum, ông chầm chậm kể cho tôi nghe những kỷ niệm không quên về một thời máu lửa khi ông khoác trên mình bộ quân phục của người chiến sỹ Pa-Thét Lào. Gần nửa thế kỷ đã trôi qua, song qua lời ông kể, tôi như thấy hiển hiện trước mắt mình những tháng năm chiến tranh gian khổ, ác liệt mà cả hai dân tộc Việt - Lào đã gắn bó keo sơn, cùng chung chiến hào đánh Mỹ.
Ông kể: Quê ông ở Điện Bàn, Quảng Nam. Chưa đầy 10 tuổi, ông theo cha và anh, chị đi tập kết (1954). Năm 1964, học xong cấp 3 (Lớp 10 hệ 10 năm của Miền Bắc trước năm giải phóng, 1975), từ chối tiêu chuẩn đi học nước ngoài của con em Miền Nam tập kết, như bao thanh niên thời ấy, ông xung phong nhập ngũ với ước mơ cháy bỏng được trực tiếp cầm súng vào Nam chiến đấu, góp phần giải phóng quê hương, song ông lại được bố trí vào Đoàn chuyên gia 959 hoạt động trên nước bạn Lào. Sang đến nước bạn, ông học tiếng Lào rất nhanh, thuộc và hát được nhiều bài hát tiếng Lào trôi chảy. Trong một buổi giao lưu với đơn vị chiến sỹ Pa- Thét Lào, có sự tham dự của Tổng bí thư Đảng nhân dân cách mạng Lào Cay Xỏn Phôm Vi Hản, Hoàng thân Xu Pha Nu Vông và Tướng Khăm Tày Xi Văn Đon, Tư lệnh tối cao quân đội Pa - Thét Lào, đồng đội giới thiệu ông lên hát bài “Xômxơi Xayxanạ Luổng Nậm Thà - Mừng chiến thắng Nậm Thà” bằng tiếng Lào.Tiếp đó, trong điệu Lăm - Vông uyển chuyển, một nữ chiến sỹ văn công Lào xinh đẹp - sau đó ông mới biết tên chị là Li Vi Văn - xúc động nói với ông trong nước mắt rơm rớm: “Ôi! Em hát hay quá! Bộ đội tình nguyện Việt Nam trẻ quá!”. Rồi chị Li Vi Văn hát tặng ông và dạy ông hát bài “Khoi ải dù neo nả - Em vẫn chờ anh nơi tiền tuyến”, một bài hát thấm đượm tình quân dân của bạn Lào.Ông đã dịch bài hát ra tiếng Việt và từ đó, trong các buổi sinh hoạt văn nghệ có cả ta và bạn, ông luôn luôn được mời lên hát các bài hát Lào Việt bằng cả hai thứ tiếng. Ông có chất giọng bẩm sinh ấm và truyền cảm, đặc biệt là ông hát rất chuẩn tiếng Lào làm các bạn Lào hết sức thán phục.Cũng trên đất nước Lào, ông đã gặp Nhạc sỹ quân đội Doãn Nho và khi Doãn Nho sáng tác bài “Tiến lên Quân đội giải phóng nhân dân Lào”, đồng đội ông là Hoàng Vinh đã cùng ông dịch lời bài hát sang tiếng Lào và ông đã nhiều lần hát cùng chiến sỹ ta và bạn bài hát này.
Những năm tháng sống và chiến đấu trên đất bạn Lào, tuy ngắn ngủi chỉ hơn 3 năm (1965-1968), nhưng đã để lại dấu ấn sâu sắc trong cuộc đời ông, mà sâu đậm nhất là hình ảnh những người dân Lào, các chiến sỹ giải phóng Pa-Thét Lào mọc mạc, hiền hậu, trung thực.Ở đâu cũng vậy, không kể đối tượng là ai, cứ khi nghe nhắc đến đất nước Lào, bạn Lào là anh như bị hút hồn vào những ký ức, và anh lại tham gia nhiệt tình, sôi nổi vào câu chuyện không dứt về đất nước Lào anh em.
 |
Ông Luận như sống lại thời trai trẻ
khi say sưa hát một bài hát Lào từ thời chiến tranh.
|
Gần suốt buổi chiều, ông say sưa với những hồi ức về các bạn Lào. Ông bảo, năm nay hai Nhà nước kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam -Lào (05/9/1962 - 05/9/2012), 35 năm ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt - Lào (18/7/1977 - 18/7/2012) và lấy năm 2012 là năm đoàn kết- hữu nghị Việt - Lào, ông vui lắm. Đã gần đến cái tuổi “Xưa nay hiếm” (Ông tuổi Dậu, sinh năm 1945) nhưng cứ mỗi khi nhắc đến đất nước Lào, những kỷ niệm với bạn Lào từ gần nửa thế kỷ trước, ông thấy mình như sống lại thời trai trẻ, khỏe ra. Ông khoe: Đầu năm vừa rồi (2012) các bạn ở Bảo tàng tỉnh đến thăm ông và có ý xin ông tặng cho Bảo tàng một số hiện vật, kỷ niệm liên quan đến nước bạn Lào để phục vụ công tác trưng bày.Dù có đôi chút luyến tiếc, song ông đã dành tặng cho Bảo tàng tỉnh những hiện vật kỷ niệm mà ông đã gìn giữ hàng mấy chục năm qua như Tấm thiếp “Chúc mừng năm mới” của TW mặt trận Lào yêu nước tặng năm 1965, lá cờ Lào từng đặt trên bàn làm việc của Hiệu trưởng trường Lưu học sinh Lào, mô hình chùa Thạt Luổng có chữ ký của các đồng chí lãnh đạo cấp cao tỉnh Kon Tum khi sang thăm Lào, chiếc Hộp đèn điện tử máy thông tin của quân đội Mỹ (SVGNal co.RPS - USA RMY BOX BX 53C) tự tay ông thu được thu được trong hầm Chỉ huy địch tại sân bay Nậm Bạc (Sầm Nưa) đầu năm 1968.Ông vẫn trăn trở một điều: Nhiều năm nay, ông đã để tâm tìm hiểu xem ở tỉnh Kon Tum còn có đồng đội, đồng chí nào cũng từng là chiến sỹ Quân tình nguyện VN tại Lào như mình không mà chưa tìm được.Gần nửa thế kỷ rồi, bạn bè cùng đơn vị ngày ấy người còn người mất, rồi những năm tháng đất nước khó khăn trăm bề, liên lạc thư từ cũng khó, thất lạc, bặt tin nhau nên tìm gặp lại được nhau bây giờ qủa như “ Mò kim đáy bể”. May mắn, gần đây ông đã tìm được một đồng đội là ông Trần Công Hàm (sau này từng là Tùy viên quân sự Đại sứ quán VN tại Lào, nay nghỉ hưu ở TP Vinh, Nghệ An), ông Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên trưởng đoàn cố vấn VN tại Lào giai đoạn 1964-1973, còn các đồng đội khác ông vẫn nhớ tên mà chưa được gặp lại như Hoàng Vinh, Trần Tiến, Nguyễn Hòe… Ông ước ao: “Giá như mình tìm được ở Kon Tum vài đồng đội từng là chiến sỹ quân tình nguyện tại Lào thì vui biết mấy!”. Có lẽ cũng vì thế mà ở Kon Tum, không mấy ai biết ông từng là chiến sỹ Quân tình nguyện VN tại Lào cách nay gần nửa thế kỷ, ngoài một Huy hiệu “Vì nghĩa vụ Quốc tế” của Bộ Quốc phòng tặng. Tôi trộm nghĩ: Giá như Hội hữu nghị Việt - Lào của tỉnh biết và mời ông tham gia Hội thì chắc chắn ông sẽ là chứng nhân sinh động cho lịch sử gắn bó sắt son và tình cảm đặc biệt của hai dân tộc Lào - Việt nói chung và tỉnh Kon Tum với các bạn Lào nói riêng!
 |
 |
Bức ảnh này chụp năm 1965 trên đất Lào.Ông Luận đứng hàng đầu, bên phải. Người mặc áo vét đen đứng bên cạnh là ông Nguyễn Trọng Vĩnh. |
Bút tích ông Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên trưởng đoàn cố vấn VN tại Lào 1964 - 1973.
|
Hỏi ông về kỷ niệm sâu đậm những năm tháng sống và chiến đấu trên đất bạn Lào, giọng ông trầm xuống: “Kỷ niệm thì nhiều, nhưng có lẽ mình sẽ không bao giờ quên những đồng đội đã ngã xuống trên đất nước bạn vì sự nghiệp độc lập, giải phóng của hai dân tộc.Bạn có biết không, chỉ ít phút trước, anh em còn ngồi với nhau trao đổi nhiệm vụ, nhắc chuyện quê hương mà có người chỉ vì chậm vài giây không kịp vào hang trú ấn khi máy bay Mỹ oanh tạc, ngớt tiếng bom, bọn mình phải đi tìm gom từng mảnh da, xương thịt đồng đội văng trên cành cây, rớt sau tảng đá, vừa chỉ đầy một thùng đạn US để gửi về Việt Nam!”. Ông đưa tôi xem cuốn hồi ký có lời đề tặng ông của Thiếu tướng Võ Sở, Phó Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn, khi đó cùng đơn vị ông đang ở bên Lào, có nhắc đến sự kiện 12 chiến sỹ Quân tình nguyện Việt Nam bị bom vùi lấp, hy sinh trong một hang đá. Biết thế mà không làm sao lấy được thi hài, bởi nếu dùng thuốc nổ phá hàng ngàn tấn đá thì thi thể ánh em mình có còn nguyên vẹn? Đành ngậm ngùi khấn nguyện vong linh đồng đội rồi nuốt nước mắt chia lìa…
Sau gần 15 năm quân ngũ, năm 1979 ông chuyển ngành về Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Gia Lai-Kon Tum, làm Trưởng phòng báo cáo viên. Được vài năm, hình như số phận dành cho ông sự ưu ái, luôn chọn ông làm công việc có liên quan với bạn Lào. Năm 1985, ông được điều động và bổ nhiệm làm Hiệu trưởng Trường lưu học sinh Lào tại GiaLai - Kon Tum, các em học sinh Lào vừa học tiếng Việt vừa học văn hóa. Nhiều lần sang thăm Lào sau này, gặp lại các học sinh cũ, nay nhiều người đã giữ cương vị trọng trách ở cơ quan Đảng, chính quyền cấp tỉnh, các em luôn nhắc về những kỷ niệm không thể quên với người thày tận tụy, nhiệt tình, hết lòng vì học sinh Lào năm xưa trên đất nước Việt Nam.
Ông quan tâm đến tất cả những gì liên quan đến nước bạn Lào mà một thời ông đã gắn bó. Bạn bè ông ở Viện nghiên cứu Đông Nam Á thuộc trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, biết ông có thời gian chiến đấu bên Lào và có tình cảm đặc biệt với nước bạn và nhân dân Lào, khi đến thăm ông, đã tặng ông hai cuốn sách quý “ Lịch sử Lào” và “Cấu trúc các bộ tộc Lào”, do Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản từ năm 1996.
 |
Ông Phan Đức Luận (áo trắng, hàng đầu) gặp lại một số cựu học sinh trường Lưu học sinh Lào trong chuyến thăm và làm việc với ngành Thông tin-Văn hóa các tỉnh Nam Lào năm 1998.
|
Ông có niềm đam mê đặc biệt với âm nhạc và ca hát. 15 năm gắn bó với ngành Văn hóa - Thông tin trên cương vị Giám đốc sở và Chủ tịch Hội Văn học-Nghệ thuật, ông hát rất nhiều. Hát trong Hội trường Hội nghị sang trọng, hát trong hội diễn Nghệ thuật quần chúng và đặc biệt là hát trong các buổi giao lưu với các đoàn khách đến thăm, làm việc với ngành Văn hóa, hát với đồng bào các dân tộc ở mỗi buôn làng. Không chỉ hát, từ gần 30 năm trước, ông đã sáng tác ca khúc. Không được đào tạo bài bản về âm nhạc, nhưng ông có năng khiếu và tình yêu vô bờ với âm nhạc.Có lẽ chính niềm đam mê ấy đã giúp ông hình thành chủ đề, cấu tứ, giai điệu đến lời của nhiều bài hát.Ông hát và cứ thế, sáng tác được lan truyền, phổ biến như một lẽ tự nhiên.Các sáng tác của ông đều có nội dung gắn với các sự kiện lịch sử của tỉnh Kon Tum, đặc trưng của từng địa phương nên rất nhiều ca khúc của ông sáng tác đã được Đoàn nghệ thuật tỉnh dàn dựng công phu, biểu diễn phục vụ cho các nhiệm vụ chính trị lớn của tỉnh và giành nhiều Huy Chương trong các kỳ Hội diễn Nghệ thuật chuyên nghiệp. Mới đây (đầu tháng 7/2012), Trung tâm Văn hóa tỉnh cũng đã dựng tác phẩm hát múa “Nguyện theo Người Hồ Chí Minh” tham gia Hội diễn Nghệ thuật quần chúng toàn quốc tại Quảng Trị. Đây là ca khúc ông viết hưởng ứng cuộc vận động sáng tác VH-NT Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đã được phát nhiều lần trong chương trình ca nhạc của Đài Tiếng nói Việt Nam. Là tác giả không chuyên, song những sáng tác của ông được nhiều người yêu thích và đã nhận được Bằng khen của Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia cho ca khúc “Mênh mang Lung Leng” viết năm 2001; Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam tặng giải Khuyến khích cuộc thi sáng tác ca khúc về Quảng Nam cho bài hát “Quảng Nam quê hương tôi”, Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch tặng Bằng chứng nhận Huy Chương vàng đơn ca ca khúc “Nhớ” của tác giả Phan Đức Luận trong liên hoan Nghệ thuật chuyên nghiệp Tiếng hát Đường 9 xanh năm 2010. Với đất nước Lào mến yêu, đương nhiên anh cũng có nhiều sáng tác như “Gửi về Attapou mến yêu”, “Thắm tình Bờ Y - Phu cưa”, “Hát ở Ngã Ba biên giới”, “Bài ca hữu nghị”…
Có lẽ niềm đam mê ca hát và sáng tác âm nhạc trong ông đã truyền sang cậu con trai , nên cháu đã thi vào nhạc viện TP Hồ chí Minh, sau gần chục năm miệt mài học tập, nay đã là một cử nhân âm nhạc, đồng thời là một Nghệ sỹ kèn sắcxôphôn, cháu cũng giúp ông hoàn thiện các ca khúc do ông sáng tác “chuyên nghiệp” hơn nhiều.
Ông tặng tôi một đĩa CD 27 bài hát và Tập ca khúc “Kon Tum - Niềm tự hào” in 29 bài hát do ông sáng tác, là máu thịt, tâm huyết của ông với mảnh đất Kon Tum nơi ông đã sinh ra và trưởng thành, Hội VH-NT tỉnh Kon Tum xuất bản đầu năm 2012 chào mừng sự kiện 100 năm thành lập tỉnh Kon Tum sắp đến (09/02/1913 - 09/02/2013). Ông bảo, tình cảm, mối quan hệ giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Lào - Việt là tình nghĩa thủy chung son sắt đặc biệt đúng như lời Bác Hồ kính yêu từng dạy: “Việt - Lào hai nước chúng ta; Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”. Trong tình cảm chung gắn bó keo sơn ấy, ông tự hào có sự đóng góp của bản thân ông những năm tháng tuổi trẻ đẹp nhất trong cuộc đời, ông đã được sát cánh sống, chiến đấu trên đất nước Lào anh em.
Chia tay ông, tôi lên xe, nổ máy.Ông vỗ vai tôi và nói “ Sapaiđi-Tiếng Lào- Chào tạm biệt!”. Đầu óc đã bắt đầu trì trệ của tôi làm tôi quên béng câu tiếng Lào tôi đã học lỏm được sau hai lần được đến đất nước Triệu Voi “Khọp chay lai lai - Cảm ơn nhiều nhiều!”. Khi ấy, nếu tôi kịp nhớ và chào lại ông như thế, chắc ông vui lắm!./.
Bài và ảnh: Tôn Bảo