 |
Cán bộ, nhân viên Cục Thuế Kon Tum.
|
LTS: Cách đây 66 năm, ngày 10/9/1945, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ban hành sắc lệnh số 27 lập ra “Sở Thuế quan và thuế gian thu”, đánh dấu sự ra đời của ngành Thuế Việt Nam. Cùng với 20 năm tái thành lập tỉnh, Cục Thuế Kon Tum được thành lập theo Quyết định số 342 TC/QĐ-TCCB ngày 08/9/1991 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Nhân sự kiện này, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với đồng chí Võ Phụ - Cục trưởng Cục Thuế tỉnh.
PV: Xin đồng chí cho biết sự ra đời và những mốc son của ngành Thuế Việt Nam?
Đ/c Võ Phụ: Những ngày này cách đây 66 năm, cùng với niềm vui giành được độc lập dân tộc (19/8/1945) và sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, ngày 10/9/1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã thay mặt Chủ tịch Chính phủ lâm thời ký Sắc lệnh số 27 thành lập Sở Thuế quan và thuế gián thu trực thuộc Bộ Tài chính. Đồng thời cùng ngày, Bộ trưởng Võ Nguyên Giáp đã ký Sắc lệnh số 28 bổ nhiệm ông Trịnh Văn Bính làm Tổng Giám đốc Sở Thuế quan và thuế gián thu.
Vào những ngày đầu thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, quỹ ngân khố trung ương chỉ có 1.250.000 đồng Đông Dương. Trước yêu cầu chi của Chính phủ cho công tác an ninh, quốc phòng và đảm bảo đời sống nhân dân, Trung ương Đảng, Bác Hồ và Chính phủ đã quyết định xoá bỏ thuế thân, bãi bỏ chế độ độc quyền muối, rượu, thuốc phiện là những chính sách nô dịch của chế độ thực dân phong kiến, giảm thuế điền thổ để khuyến khích nhân dân tăng gia sản xuất … Các chủ trương, chính sách và biện pháp tài chính, tiện tệ đã khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần độc lập, tự chủ và sự đóng góp của nhân dân; những Sắc lệnh, Nghị định về chính sách thuế, hệ thống tổ chức thuế được thực hiện nghiêm túc. Nhờ đó, số thu ngân sách Nhà nước đáp ứng nhu cầu cấp bách, quan trọng của chính quyền cách mạng và tiếp sức cho cuộc kháng chiến chống Pháp đi đến thắng lợi.
Thời kỳ 1955 - 1965: ngành Thuế đã tham mưu cho Bộ Tài chính trình các cấp có thẩm quyền xem xét ban hành một hệ thống thuế hoàn chỉnh và áp dụng thống nhất trên toàn miền Bắc (gồm có thuế nông nghiệp thu bằng hiện vật và 12 loại thuế thu bằng tiền). Sau đó, theo Nghị định 197-CP ngày 7/11/1961 của Chính phủ, Sở thuế công thương nghiệp được chuyển thành Vụ thu quốc doanh và thuế; Vụ thuế nông nghiệp được chuyển thành Vụ tài vụ hợp tác xã và thuế nông nghiệp. Do đó, hệ thống chính sách thuế mới được ban hành thời kỳ này đã đạt được yêu cầu từng bước bao quát các nguồn thu cho ngân sách nhà nước (NSNN), tỷ lệ động viên tài chính chiếm từ 28% - 30% thu nhập quốc dân, phần thu trong nước chiếm tỷ trọng 70% - 80% tổng số thu của NSNN.
Trong những năm cả nước tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam thống nhất đất nước (1966 - 1975) ngành Thuế đã cùng cấp uỷ, chính quyền các địa phương phát động phong trào “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”… đồng thời tiếp tục có những nghiên cứu, tham mưu, đóng góp cho Đảng, Nhà nước những giải pháp chính sách phù hợp áp dụng cho hai miền Bắc, Nam. Cụ thể:
Ở miền Bắc, tổ chức ngành thuế cũng được cải tiến theo Nghị định 61/CP ngày 20/3/1974 của Hội đồng Chính phủ, ngành thuế đề ra chính sách, tổ chức quản lý thu phù hợp có hiệu quả rõ rệt, với tổng thu ngân sách thời kỳ 1966-1970 tăng gấp 2 lần so với thời kỳ 1961-1965; thời kỳ 1971 - 1975 tăng gấp 2,7 lần so với thời kỳ 1961-1965.
Ở miền Nam, chính quyền cách mạng lâm thời đã thực hiện chính sách động viên hợp lý như “đảm phụ nuôi quân”,“đảm phụ nông nghiệp”,“đảm phụ công thương nghiệp”,“đảm phụ xuất nhập thị”,“đảm phụ ở các đồn điền”,“công phiếu nuôi quân”…tạo ra nguồn lực tài chính để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Từ năm 1976 đến trước thời kỳ đổi mới (1985), ngành Thuế đã nghiên cứu trình Bộ Tài chính trình Chính phủ, Quốc hội ban hành Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch thay thế chế độ “thu bù chênh lệch ngoại thương”; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều về thuế công thương nghiệp và thuế hàng hoá; thuế nông nghiệp; cải tiến chế độ thu quốc doanh; phục hồi chế độ thuế sát sinh, ban hành một số loại lệ phí.
Đất nước bước vào thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến năm 1996), ngành thuế đã nghiên cứu trình các cấp có thẩm quyền ban hành một hệ thống chính sách thuế mới thay thế cơ bản các chính sách thuế trước đó. Đồng thời, ngành Thuế cũng nghiên cứu và trình Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 281-HĐBT ngày 7/8/1990 về việc thành lập hệ thống Thuế Nhà nước trực thuộc Bộ Tài chính. Từ đó cho đến nay, ngành Thuế hoạt động với một bộ máy thống nhất từ trung ương đến địa phương. Việc thực hiện hệ thống chính sách thuế và cơ cấu tổ chức mới cho thấy, số thu nội địa đã liên tục vượt dự toán được giao, năm sau cao hơn năm trước và chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng thu ngân sách (đến năm 1996 đã chiếm trên 90% tổng số thu của NSNN); tỷ lệ động viên từ thuế và phí so với GDP ngày càng tăng (từ 12,83% GDP năm 1992 tăng lên 23,52% năm 1996); số thu thuế năm 1996 gần bằng 9,5 lần số thu năm 1990.
Từ kết quả đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (6/1996) khẳng định: “Việt Nam đã hình thành được hệ thống thuế áp dụng thống nhất cho các thành phần kinh tế, nâng dần tỷ lệ động viên thuế và phí trong GDP, tạo thành nguồn thu chính cho NSNN, bảo đảm toàn bộ chi thường xuyên và tăng dần giành cho đầu tư phát triển…”.
Trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và yêu cầu hội nhập ngày càng sâu rộng của đất nước, từ năm 2003, ngành Thuế đã nghiên cứu xây dựng và trình Bộ Tài chính trình Chính phủ phê duyệt “Chiến lược cải cách và hiện đại hoá hệ thống thuế đến năm 2010”. Đến nay, việc thực hiện chiến lược này về cơ bản đã hoàn thành các mục tiêu đề ra. Cụ thể:
Số thu ngân sách không ngừng tăng trưởng. Nếu như năm 2000 thu nội địa chiếm 76,9% tổng thu NSNN, thì đến năm 2010 số thu nội địa chiếm 92,6% tổng số thu NSNN (trong đó thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh chiếm 72,7%). Hiện cả nước đã có 40 địa phương có số thu ngân sách trên 1000 tỷ đồng; 5/63 địa phương có số thu trên 10 ngàn tỷ đồng. Riêng TP Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh đang hiện hữu trở thành địa phương có số thu 100 ngàn tỷ đồng/năm. Trong khi đó, ngành Thuế đã tham mưu trình Bộ Tài chính, Chính phủ, Quốc hội ban hành Luật Thuế TNCN, Luật thuế tài nguyên, Luật Thuế bảo vệ môi trường… đồng thời kiến nghị sửa đổi, bổ sung: Luật thuế GTGT, Luật Thuế TTĐB, Luật thuế TNDN… liên tục rà soát, bãi bỏ hoặc sửa đổi các loại phí, lệ phí không hợp lý khác, được xã hội cùng cộng đồng doanh nghiệp đánh giá cao.
Bên cạnh đó, ngành Thuế đã xây dựng, trình các cấp có thẩm quyền ban hành Luật Quản lý thuế, thống nhất được các quy định về quyền hạn và trách nhiệm của cả cơ quan quản lý thuế, người nộp thuế và các tổ chức, cá nhân có liên quan về quản lý thuế .v.v… Đồng thời, ngành đã triển khai đồng bộ các chương trình, giải pháp đẩy mạnh cải cách hành chính thuế theo hướng xoá bỏ các thủ tục rườm rà, gây tốn kém về thời gian, tiền bạc của người nộp thuế; tạo điều kiện thuận lợi hơn cho NNT tự giác thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ thuế với Nhà nước.
Đặc biệt, thực hiện Đề án 30 của Chính phủ về đơn giản hoá các thủ tục hành chính, đến nay toàn ngành kiến nghị sửa đổi. bổ sung 243 thủ tục; thay thế 4 thủ tục, bãi bỏ 11 thủ tục, đơn giản hoá 76% thủ tục trong số thủ tục hành chính thuế đã công bố và ước tính sẽ cắt giảm khoảng 36,1% chi phí tuân thủ chung cho xã hội về thực hiện các thủ tục hành chính thuế…
Một trong những thành tựu nổi bật của ngành Thuế là việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thuế đã phát huy hiệu quả tích cực như các ứng dụng: đăng ký thuế qua mạng, khai thuế qua mạng, thu thuế qua ngân hàng, … Việc thực hiện những ứng dụng này vừa tạo thuận lợi cho cơ quan thuế quản lý thuế được tốt hơn, vừa tiết kiệm thời gian và chi phí cho người nộp thuế.
PV: Đề nghị đ/c cho biết về sự trưởng thành và kết quả hoạt động của Cục Thuế tỉnh Kon Tum qua 20 năm thành lập ?
Đ/c Võ Phụ: Cục Thuế tỉnh Kon Tum được thành lập theo Quyết định số 342 TC/QĐ-TCCB ngày 08/9/1991 của Bộ trưởng Bộ Tài chính trên cơ sở tách Cục Thuế tỉnh Gia Lai – Kon Tum thành hai cục thuế: Cục Thuế tỉnh Gia Lai và Cục Thuế tỉnh Kon Tum. Tổ chức bộ máy Cục Thuế tỉnh Kon Tum ngày đó chỉ có 90 người gồm 5 Chi cục Thuế huyện, thị xã và 5 Phòng thuộc Văn phòng cục, đến nay đã có 311 công chức gồm 11 Phòng thuộc Văn phòng cục và 9 Chi cục Thuế huyện, thành phố; có trình độ chuyên môn: thạc sỹ 3 , đại học-cao đẵng 227 chiếm hơn 74%, trung cấp và tương đương 81 chiếm 26% tổng số công chức.
Trong những năm qua, Cục Thuế tỉnh luôn hoàn thành và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao, số thu NSNN năm sau luôn cao hơn năm trước. Cụ thể: Giai đoạn từ 1991 đến 1995, tổng số thu NSNN được gần 142 tỷ đồng đạt 130% so với dự toán. Giai đoạn từ 1996 đến 2000, tổng số thu NSNN được hơn 417 tỷ đồng đạt 120% so với dự toán và bằng 300% giai đoạn 1991-1995. Giai đoạn từ 2001 đến 2005, tổng số thu NSNN được hơn 930 tỷ đồng đạt 122% so với dự toán và bằng 223% giai đoạn 1996-2000. Giai đoạn từ 2006 đến 2010, tổng số thu NSNN được hơn 3.268 tỷ đồng đạt 130% so với dự toán và bằng 351% giai đoạn 2001-2005. Riêng nhiệm vụ công tác thuế năm 2011 trên địa bàn đã được HĐND và UBND tỉnh Kon Tum giao cho Cục Thuế tỉnh quản lý thu 1.213 tỷ đồng, đây là một nhiệm vụ hết sức nặng nề, phấn đấu hoàn thành vượt mức nhiệm vụ công tác thuế năm 2011có ý nghĩa thiết thực chào mừng thành công Đại hội Đảng các cấp, tạo đà và là nền tảng quan trọng cho năm đầu thực hiện kế hoạch 5 năm 2011 - 2015.
PV: Đồng chí cho biết thêm về kết quả quản lý thu thuế 8 tháng qua của năm 2011 và những giải pháp gì để chỉ đạo thực hiện mục tiêu năm 2011 ?
Đ/c Võ Phụ: Năm 2011, triển khai nhiệm vụ trong bối cảnh kinh tế cả nước gặp nhiều khó khăn, thiên tai, dịch bệnh xẩy ra liên tiếp, giá cả liên tục tăng cao. Bên cạnh đó, toàn Đảng, toàn Dân và các Bộ, Ngành đang tập trung thực hiện tiết kiệm theo Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ. Ngày 08/3/2011 Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Chỉ thị số 01/CT-BTC chỉ đạo ngành thuế, hải quan; ngày 28/02/2011 UBND tỉnh Kon Tum đã ban hành Chương trình hành động số 268A/CTr- UBND triển khai thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.
Ngay từ những tháng đầu năm, ngành Thuế đã chủ trì, phối hợp với các Sở, Ngành, UBND các huyện, thành phố tập trung mọi biện pháp chỉ đạo; tích cực khai thác các nguồn thu; tăng cường kiểm tra, giám sát, chống thất thu; kiên quyết xử lý các khoản nợ đọng … Kết quả 8 tháng đầu năm thu được hơn 870 tỷ đồng đạt 72% dự toán và bằng 116% so với cùng kỳ.
Để hoàn thành nhiệm vụ quan trọng này trong những tháng cuối năm cũng như tạo tiền đề cho năm tới, ngành phải tập trung cao độ vào những giải pháp cơ bản như:
Thường xuyên theo dõi sát tình hình phát triển KT-XH và những nhân tố làm ảnh hưởng tăng, giảm nguồn thu ngân sách trên địa bàn để tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương các biện pháp chỉ đạo tháo gỡ kịp thời những khó khăn vướng mắc. Phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức ít nhất 7% so với nhiệm vụ đã được Bộ và Tỉnh giao.
Chủ trì và phối hợp thường xuyên với các Sở, Ngành, UBND các huyện, thành phố và cộng đồng các doanh nghiệp triển khai thực hiện tốt các chính sách mới về thuế, đặc biệt như Nghị định 51 về hoá đơn, Thông tư 28 về Luật Quản lý thuế, Nghị quyết số 08/2011/QH13 của Quốc hội khoá XIII về giảm thuế TNCN, TNDN.
Tăng cường công tác thanh, kiểm tra; đấy mạnh thu hồi nợ đọng và cưỡng chế nợ thuế; triển khai kịp thời các ứng dụng tin học vào phục vụ công tác quản lý thuế; đổi mới mạnh mẽ về công tác tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế; đẩy mạnh cải cách hành chính theo Đề án 30 của Chính phủ; Triệt để thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Tăng cường giáo dục, bồi dưỡng, kiểm tra giám sát, đánh giá đội ngũ công chức thuế. Kiên quyết xử lý nghiêm các trường vi phạm.
Tóm lại, Với bề dày truyền thống tốt đẹp, với sự năng động, sáng tạo, vững vàng trước những thử thách, khó khăn và tinh thần thực sự cầu thị, toàn thể công chức ngành Thuế tin tưởng trong thời gian tới sẽ tiếp tục hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị, trước mắt là nhiệm vụ công tác thuế năm 2011 và kế hoạch 5 năm 2011-2015, góp phần tích cực cùng cả nước thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế - xã hội 5 năm (2011 - 2015).
Toàn thể lãnh đạo, công chức ngành Thuế tỉnh tin tưởng rằng, bằng sự nỗ lực, lao động sáng tạo của mình, sẽ ngày càng phục vụ tốt hơn, đóng góp hiệu quả hơn vào sự nghiệp đổi mới và phát triển của tỉnh nhà, xứng đáng với lòng tin của các cấp lãnh đạo, của nhân dân mà Ngành đã dày công xây dựng, vun đắp trong 66 năm qua, cũng như sự trưởng thành của ngành Thuế tỉnh qua 20 năm thành lập.
Xin trân trọng cảm ơn đồng chí Cục trưởng ./.
Cổng TTĐT Kon Tum - Cục Thuế Kon Tum (thực hiện)