Thứ 5, Ngày 12/06/2025 -

Thân thương mùa giữ rẫy của đồng bào các dân tộc thiểu số Bắc Tây Nguyên
Ngày đăng: 30/11/2018  03:06
Mặc định Cỡ chữ
Tháng 3, tháng 4 hàng năm bước vào mùa rẫy mới, sang tháng 10, tháng 11 là vụ gặt hái của đồng bào các dân tộc thiểu số Bắc Tây Nguyên. Ở giữa khoảng cách này, trùng với thời kỳ cây lúa khô làm đòng, trổ bông, có một thời gian được gọi là mùa giữ rẫy. Không chỉ đuổi chuột, đuổi chim, ngày trước, mùa giữ rẫy còn gắn với tiếng T’rưng, làm nên nét văn hóa dân gian dân dã mà độc đáo của bà con. Trong khuôn khổ Tuần Văn hóa-Du lịch tỉnh Kon Tum lần thứ 4 được tổ chức vào trung tuần tháng 12 năm 2018, không gian mùa giữ rẫy sẽ được tái hiện, thêm một lời trân trọng với nét đẹp văn hóa dân gian.

 


Một vùng rẫy của người Xê Đăngở huyện Đăk Glei
 
Theo tập quán canh tác lâu đời, trước đây, mỗi năm, đồng bào các dân tộc tại chỗ của tỉnh Kon Tum chỉ làm một mùa rẫy, bắt đầu từ đầu mùa khô đến cuối mùa mưa hàng năm. Mùa giữ rẫy của người Ba Na, Xê Đăng, Gia Rai, Giẻ Triêng…thường vào cuối tháng 8 đầu tháng 9, đúng thời kỳ phát triển quan trọng nhất của cây lúa khô, khi làm đòng, trổ bông, kết hạt.
 
Già A Ling ở làng Pa Cheng, xã Đăk Long, huyện Đăk Hà kể: Ngày xưa, rừng núi còn hoang vu nên làm rẫy thì dù ở gần hay ở xa đều là nơi chim, thú rình rập. Mùa lúa trổ cũng là lúc nhiều con chim, con chuột đến phá. Lên rẫy đuổi chim, đuổi chuột để giữ lúa, các chàng trai thường tranh thủ lấy tre nứa, dây mây làm đàn T’rưng. Đánh T’rưng không chỉ cho vui những ngày “ăn rẫy, ngủ rẫy”, mà âm thanh réo rắt của nó cũng khiến lũ chuột lũ chim phải tránh xa.
 
Ông A Jar ở làng Plei Đôn, phường Quang Trung, thành phố Kon Tum giải thích thêm: Ngày trước, người làng có nhiều cách giữ rẫy như làm hình nộm tre, hình rơm, làm dàn ống nứa, ống lồ ô phát ra tiếng động mạnh; song giữ rẫy bằng tiếng “Tạ tơng” (đàn T’rưng) vẫn được trai làng yêu thích nhất.
 
Cùng được chế tác từ ống nứa, ống lồ ô và dây mây, song trong khi tiếng đàn Klông Pút chỉ có thể được nghe trong không gian hẹp, không đi xa thì âm thanh của T’rưng vang vọng, cách 100-200 m vẫn còn vẳng lại. T’rưng có cùng thang âm với cồng chiêng, nhưng một bộ cồng chiêng cần nhiều người đánh, còn T’rưng thì chỉ một người gõ đã thành. “Hay lắm, độc đáo, cuốn hút lắm! Thế mới hợp để giữ rẫy làm sao! - Ông A Jar cảm nhận.
 

“Tiếng đàn giữ rẫy” của 2 nghệ nhân ưu tú A Ling vàA Thăk
 
Chính vì thế, giữ rẫy không chỉ đơn thuần để đuổi chim, đuổi chuột, bảo vệ mùa màng no ấm; mà còn là nét đẹp văn hóa bình dị trong lao động sản xuất và đời sống tinh thần của người dân sống nhờ vào rừng vào núi. Mùa giữ rẫy cũng là mùa của tình cảm lứa đôi. Ông A Plung ở làng Kon Gla, xã Đăk Pxi, huyện Đăk Hà còn nhớ, nhờ đánh đàn T’rưng giữ rẫy mà không ít trai gái làng, trong đó có vợ chồng ông đã thành đôi, bởi “Con gái đi lấy măng, kiếm nấm bờ rẫy nghe tiếng đàn, nó thích, nó thương luôn…”. Khi đã về chung một nhà, vợ chồng cùng giữ rẫy, tiếng đàn T’rưng càng trở nên thân thương gắn kết.
 
Theo thời gian, tập quán sản xuất của đồng bào các dân tộc thiểu số đã có nhiều thay đổi. Tiếng T’rưng không còn trên rẫy gần, rẫy xa. Tuy vậy, giọng đàn quyến rũ, đáng yêu ấy vẫn được trao truyền cho lớp con cháu đi sau giữ lấy. Không chỉ tập tành riêng lẻ, có những lớp dạy chế tác và sử dụng đàn T’rưng như ở huyện Đăk Hà đã được mở ra. Tiết mục “Tiếng đàn giữ rẫy” của nghệ nhân ưu tú A Ling, nghệ nhân ưu tú A Thăk ở làng Pa Cheng vẫn được chào đón và dành trọn tình cảm của mọi người.
 
Mùa giữ rẫy ngày nào chính là một phần cuộc sống lao động, sinh hoạt thân thương, gần gũi của đồng bào dân tộc thiểu số Bắc Tây Nguyên còn được nhắc nhớ cho đến hôm nay và mai sau ./.
                    
                                                                                        Bài, ảnh: Nghĩa Hà