Theo số liệu thống kê, đến nay Kon Tum là tỉnh có nhiều thành phần dân tộc cùng chung sống, dân số có trên 380 ngàn người, đồng bào dân tộc ít người chiếm 53,9%. Kon Tum có 6 dân tộc bản địa sinh sống lâu đời gồm : người Xơ Đăng đông nhất với khoảng 94 ngàn người cư trú phần lớn ở phía bắc và phía đông thuộc các huyện Tu Mơ Rông, Đăk Tô, Kon Plông…Người Ba Na có khoảng 48 ngàn người, cư trú ở phía nam thuộc thị xã Kon Tum, huyện Kon Rẫy, Đăk Hà. Người Giẻ Triêng có khoảng 29 ngàn người cư trú ở 2 huyện Đăk Glei và Ngọc Hồi. Người Gia Rai có khoảng 20 ngàn người, cư trú ở huyện Sa Thầy và thị xã Kon Tum. Hai tộc người có dân số ít nhất là B’râu có khoảng trên 350 người, cư trú trong một làng (làng Đăk Mế xã Bờ Y) huyện Ngọc Hồi và người Rơ Măm có khoảng 400 người, cư trú tại một làng (làng Le xã Mô Rai) ở huyện Sa Thầy. Ngoài ra còn các tộc người khác như HRê, Mường, Nùng, Tày, Thái, Sán Dìu, Sán Chay, Kor, Kờ Ho, Khơ Me, Chăm, Ê Đê, Cà Tu, Dao…từ các tỉnh di cư vào sinh sống trên địa bàn có dân số ít với khoảng 20 ngàn người, cư trú rải rác ở nhiều địa phương trong tỉnh.
 |
Nối vòng Xoang Ba Na - Ảnh: D.Nương. |
Kon Tum là một vùng đất đậm đặc về văn hóa dân gian truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số. Hệ thống di sản văn hóa vật thể và phi vật thể rất phong phú, độc đáo mang bản sắc đặc thù, thể hiện ở các loại hình : Khảo cổ, văn hóa luật tục, văn hóa cư trú, nhà rông - nhà dài, văn hóa cồng chiêng và nhạc cụ dân tộc, diễn xướng dân gian, các loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống, văn hóa ẩm thực, văn hóa trang phục, ngôn ngữ-chữ viết, chạm khắc-hoa văn, họa tiết, dệt thổ cẩm, đan lát...
Trên lĩnh vực khảo cổ đã tìm thấy và khai quật di chỉ khảo cổ Lung Leng và di chỉ khảo cổ vùng lòng hồ Thủy điện Plei Krông với cả triệu hiện vật hết sức giá trị, phục vụ công tác nghiên cứu khoa học và tham quan tìm hiểu về văn hóa tiền sử Kon Tum nói riêng và Tây Nguyên nói chung. Đến nay Kon Tum có 5 di tích lịch sử- danh thắng cấp quốc gia: Di tích lịch sử Ngục Kon Tum; Di tích lịch sử Ngục Đăk Glei; Di tích lịch sử chiến thắng Đăk Tô-Tân Cảnh; Di tích lịch sử chiến thắng Plei Kần và Di tích danh thắng Măng Đen, 8 di tích lịch sử và văn hóa được xếp hạng cấp tỉnh. Một số công trình kiến trúc tôn giáo-tín ngưỡng khá độc đáo như : Nhà thờ gỗ, Đại chủng viện Kon Tum, Đình Võ Lâm, Đình Lương Khế, Đình Trung Lương, Chùa Bác Ái... đã và đang phát huy giá trị trong đời sống của nhân dân trong tỉnh. Bảo tàng tỉnh trong nhiều năm qua đã sưu tầm được hơn 20 ngàn hiện vật lịch sử- văn hóa có giá trị khoa học trên địa bàn tỉnh qua các thời kỳ.
 |
Dệt thổ cẩm - Ảnh: N.Đang. |
Bên cạnh khảo cổ là kho tàng về Sử thi, Kon Tum đã triển khai thực hiện Dự án của trung ương điều tra sưu tầm về Sử thi các dân tộc thiểu số, đã phát hiện ra hệ thống sử thi liên hoàn rất có giá trị của dân tộc Ba Na Rơ Ngao và dân tộc Xơ Đăng TơĐRá ở Kon Tum, từ năm 2002 đến năm 2007 đã hoàn thiện công tác sưu tầm để biên dịch và tiến hành xuất bản phát hành 10 tác phẩm sử thi với hàng chục ngàn trang in phục vụ công tác nghiên cứu và giới thiệu về bản sắc văn hóa độc đáo do đồng bào các dân tộc thiểu số sáng tạo ra. Bằng thể loại văn vần dài hàng ngàn câu, với những tuyến nhân vật đan xen nhau thể hiện những giai đoạn lịch sử tiêu biểu của dân tộc mình. Có vùng thì chỉ hát kể, có vùng thì vừa hát kể vừa kèm theo diễn xuất rất linh hoạt và thu hút. Thông qua đó người nghe nhận biết được quan niệm về sự ra đời của đất, trời, của con người, tâm linh tín ngưỡng, mối quan hệ trong cộng đồng, phong tục tập quán, sự hình thành và phát triển đời sống xã hội…được trình diễn một cách rất hấp dẫn, kết cấu chặt chẽ, có chương có đoạn, có mở có kết rất tài tình. Là sự thể hiện về khát vọng của đồng bào về một xã hội tươi đẹp, một cuộc sống đủ đầy, bình đẳng, cái thiện thắng cái ác…Nghệ thuật hát kể Sử thi thu hút rất đông người nghe, đặc biệt trong dịp nông nhàn, lễ hội, mùa mưa trong không gian nhà rông hoặc nhà dài, bên cạnh bếp lửa lung linh, huyền ảo và kỳ bí.
Qua khảo sát trực tiếp trên địa bàn tỉnh trong Dự án quốc gia thì Kon Tum có khoảng 200 tác phẩm sử thi của các dân tộc Ba Na, Xơ Đăng, Gia Rai. Hiện có khoảng 26 người có khả năng hát kể được từng phần của sử thi dân tộc mình. Trong đó có 5 nghệ nhân có khả năng thể hiện nghệ thuật hát kể một cách khá đầy đủ loại hình di sản quí hiếm này và có 3 nghệ nhân đã được Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân dân gian.
Trong nghệ thuật diễn xướng dân gian thì dân ca - dân vũ là một thế mạnh trong đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc ít người Kon Tum. Cũng như các tỉnh bạn trong khu vực, các tộc người ở Kon Tum sáng tạo ra nhiều thể loại dân ca rất phong phú, nghệ thuật diễn xướng cũng khá đặc sắc, đi vào lòng người. Các thể loại dân ca tiêu biểu như hát ru, hát giao duyên, sinh hoạt, phong tục, lễ hội…thông qua các kiểu: hát nói, hát có tiết tấu, diễn xướng nhất là dân ca giao duyên, đối đáp, hát ru… nhiều làn điệu rất đặc sắc như Tin Tin, Rơ Nghê của tộc người Xơ Đăng, Ba Na hay KĐọ của tộc người Giẻ Triêng…giống nghệ thuật hát Ei Rei dân ca Ê Đê (Đăk Lăk) sâu lắng, mượt mà, tha thiết và thời gian thể hiện rất dài, có nhạc cụ đệm như đàn Tơ Rưng, đàn KlôngPut, Tinh Ning, Goong…lời ca thường có vần điệu khá chặt chẽ, nhịp điệu hài hòa, ngôn ngữ đối xứng dễ thuộc, dễ nhớ, gieo vần linh hoạt.
Dân ca – dân vũ gắn bó chặt chẽ với cuộc sống của đồng bào, có sức sống mạnh mẽ trong cộng đồng. Hiện nay sinh hoạt hát dân ca và múa xoang cùng với các loại nhạc cụ dân tộc được đồng bào duy trì thường xuyên và phát triển rất mạnh ở các bản làng, được lưu giữ và truyền dạy rất kỹ và có mặt ở tất cả các sinh hoạt dân gian, từ gia đình đến cộng đồng, lứa tuổi thanh thiếu niên đã tiếp cận và thích nghi với loại hình nghệ thuật dân gian này. Đồng thời ở các cấp đã phát triển nâng cao thành các liên hoan và hội thi biểu diễn dân ca và nhạc cụ dân tộc từ cấp xã đến cấp huyện và cấp tỉnh định kỳ hàng năm. Đối với khu vực Tây Nguyên, Trung tâm Truyền hình Việt Nam tại Đà Nẵng đã phối hợp với các tỉnh tổ chức định kỳ liên hoan dân ca-dân vũ cả 5 tỉnh hàng năm từ năm 2002 đến nay.
 |
Bên Tượng nhà mồ - Ảnh: N.Đang. |
Cùng với các loại nhạc cụ tiêu biểu như đàn T'rưng, Klông Pút, Đinh Túk, Ting Ning… văn hóa cồng chiêng là loại nhạc cụ phổ biến, đặc trưng nhất của các dân tộc Tây Nguyên nói chung và Kon Tum nói riêng. Ngoài vai trò là phương tiện diễn tấu nghệ thuật, cồng chiêng còn thể hiện quyền uy, sự giàu sang của mỗi gia đình, dòng tộc, bản làng, là vật thiêng trong tín ngưỡng của các dân tộc Tây Nguyên, thành tố đặc trưng của văn hóa Tây Nguyên.
Cồng chiêng và nghệ thuật diễn tấu cồng chiêng của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên nói chung và Kon Tum nói riêng rất đa dạng, phong phú. Đặc điểm chung, nổi bật của dàn cồng, chiêng là sự kết hợp linh hoạt những âm thanh cao, thấp, tạo nên sự phối bè khác nhau. Kết hợp với cồng, chiêng có cả trống, lục lạc, chuông đồng... tạo nên sự hoà âm phong phú. Cồng chiêng có khả năng trình diễn độc lập, nhưng cũng có thể kết hợp với nhiều loại nhạc khí khác, kể cả giọng hát của con người. Nếu lễ hội dân gian quy tụ được rất nhiều loại hình nghệ thuật trình diễn, trong đó có cồng chiêng thì khi cồng chiêng lên tiếng sẽ thu hút sinh hoạt của nhiều người nhất, nghệ thuật âm nhạc của cồng chiêng cũng chiếm thời lượng nhiều nhất trong lễ hội. Chưa thấy một lễ hội dân gian nào vắng mặt cồng chiêng dù ở quy mô nhỏ như gia đình hoặc lớn hơn là của cả cộng đồng.
Theo tập quán của các dân tộc ít người ở Kon Tum thì đa phần chỉ có đàn ông mới được đánh cồng chiêng, còn phụ nữ thì tham gia thể hiện nghệ thuật múa Xoang (dân vũ), (Tuy nhiên, có những nhánh của dân tộc Xơ Đăng như Xơ Đăng Mơ Nâm ở huyện Kon Plông thì phụ nữ cũng đánh chiêng). Hiện nay Kon Tum có khoảng trên 300 đội cồng chiêng/627 bản làng đồng bào dân tộc thiểu số và có khoảng hơn 20 ngàn người biết đánh cồng chiêng, trong đó có khoảng gần 10 ngàn ở lứa tuổi thanh thiếu niên từ 12 – 25 tuổi. Có đội chỉ sử dụng 1 bộ chiêng trong 1 làng, có đội sử dụng 2-3 bộ chiêng khác nhau trong 1 làng ( như các đội sử dụng các bộ chiêng có tên : Xteng, Hleng của tộc người Xơ Đăng Xteng; Ania, PơSơi, Goong của tộc người Gia Rai; Nỉ, Kh’leng, Xum của tộc người Giẻ Triêng…); có đội chiêng chỉ có 2 người như đội chiêng Tha (tộc người Brâu), có đội đông tới 21 người như đội chiêng Ania với 18 lá cồng, chiêng kèm theo lục lạc, trống (tộc người Gia Rai A Rap)...
Ở Kon Tum cũng như các tỉnh trong khu vực, nhạc cụ dân tộc đều được chế tác từ các loại chất liệu của núi rừng như tre, nứa, gỗ, vỏ bầu, sừng, da động vật…song cực kỳ phong phú, đa dạng và độc đáo do các thế hệ nghệ nhân các dân tộc thiểu số sáng tạo ra để phục vụ đời sống tinh thần. Có rất nhiều loại nhạc cụ khác nhau song cơ bản thuộc về các bộ gồm : Bộ gõ : đây là loại phong phú nhất với rất nhiều nhạc cụ, tiêu biểu là cồng chiêng (chất liệu đồng), đàn Tơ Rưng, trống các loại ( chất liệu tre, nứa, gỗ, da)…Bộ hơi : tiêu biểu như đàn KlôngPut, Đinh Tuk, Đinh Pú, các loại sáo TaLum, TaLen, các loại khèn ( chất liệu tre, nứa), Tù và (sừng động vật), kèn lá…Bộ gảy dây : tiêu biểu như đàn Ting ning, đàn Goong (vỏ quả bầu), đàn M’bin (chất liệu gỗ)…
 |
Trình diễn Đinh Tut của người Giẻ Triêng - Ảnh: N.Đang. |
Dù bằng một ống nứa, thanh tre, quả bầu hay nhiều ống nhiều thanh ghép lại thì các loại nhạc cụ dân gian đều rất độc đáo, do bàn tay tài hoa của các nghệ nhân dân tộc thiểu số chế tác ra và được trao truyền kỹ năng từ đời này sang đời khác và trở thành một bộ phận không thể thiếu trong hoạt động văn hóa dân gian phục vụ đời sống tinh thần hàng ngày của đồng bào. Mỗi nhạc cụ đều gắn với một chuyện về nguồn gốc sự ra đời của nó. Có những loại chỉ sử dụng ở lễ hội, lễ thức cộng đồng, có loại chỉ đánh trên nương rẫy, có loại là phương tiện để bày tỏ tình yêu đôi lứa, có loại vừa để giải trí vừa để xua đuổi thú rừng…Qua khảo sát điền dã ở các bản làng và quan sát tại các liên hoan, hội thi nhạc cụ dân gian dân tộc thiểu số của Kon Tum cho thấy nó được bảo tồn, trao truyền và phát huy giá trị thực tiễn trong đời sống với sự tham gia của mọi lứa tuổi. Hiện nay, đến bất cứ bản làng nào, tộc người nào cũng đều hiện hữu vài ba loại nhạc cụ dân tộc thường xuyên được sử dụng phục vụ sinh hoạt cá nhân, gia đình và cộng đồng.
Làng nghề ở Kon Tum cũng khá phong phú song đều ở phạm vi nhỏ lẻ, hoạt động ở qui mô hẹp. Bởi xuất phát điểm từ nền kinh tế tự túc, tự cấp dựa vào nương rẫy là chính nên nghề nào cũng có ở các bản làng song cũng chỉ ở mức độ phục vụ đời sống là chính, chưa đạt đến mức độ tinh xảo. Nghề rèn có ở tộc người Xơ Đăng Tơ ĐRá, nghề gốm có ở tộc người Ba Na, nghề đẽo khắc gỗ có ở người Gia Rai A Ráp, Ba Na Rơ Ngao tuy nhiên đến nay hầu như không còn tồn tại.
Riêng về nghề dệt thổ cẩm, nghề đanlát mây tre, chế biến rượu cần…thì vẫn tồn tại và ngày càng phát triển. Dệt thổ cẩm chủ yếu ở các tộc người Ba Na, Giẻ Triêng, Gia Rai, hiện đang hồi phục phát triển trở lại, tuy nhiên không còn sử dụng bằng chất liệu vỏ cây rừng nữa mà bằng sợi bông và dệt thủ công bằng phương tiện truyền thống. Hiện nay tại thị xã Kon Tum đã phát triển thành làng nghề truyền thống dệt thổ cẩm tại 2 làng Plei Tơ nghia và Plei Tơ Nha có hầu hết các gia đình đồng bào dân tộc Ba Na tham gia, thổ cẩm của học đã trở thành hàng hóa bán ở trong và ngoài tỉnh. Ở các dân tộc Giẻ Triêng và Gia Rai chủ yếu dệt thổ cẩm để sử dụng và chỉ có số lượng nhỏ bán cho đồng bào trong vùng, chưa phát triển thành làng nghề.
Nghề đan lát mây tre thì ở đâu cũng có để phục vụ nhu cầu đời sống gia đình, riêng ở thị xã Kon Tum đã phát triển thành làng nghề đan lát như làng Kon Tum KPâng, Kon Rờ Bàng…chuyên cung cấp các sản phẩm thủ công được đan lát từ mây tre cho thị trường trong tỉnh, cho người Kinh sử dụng. Còn chế biến rượu cần truyền thống thì phát triển ở phạm vi những nhóm hộ gia đình để chế biến và cung cấp cho nhu cầu sử dụng của thị trường, chủ yếu là khu vực thị xã Kon Tum và huyện Đăk Hà.
Lễ hội của các tộc người ở Kon Tum có dáng vẻ riêng mang tính khu vực. Lễ hội cộng đồng được sản sinh trong điều kiện, hoàn cảnh sống, lao động sản xuất gắn liền với núi rừng bạt ngàn; chứa đựng một sắc thái văn hóa riêng trong sự hài hòa của nắng mưa, của núi rừng và nương rẫy.
Lễ hội của các tộc người ở Kon Tum nói riêng và Tây Nguyên nói chung là lễ hội nguyên hợp, bao giờ cũng xuất phát từ yếu tố thiêng - nghi thức tế lễ, hiến sinh để mong đổi lại sự bình yên và no đủ. Khi các hành động đó cảm thấy được chứng giám thì ở mỗi con người như được cởi mở, thăng hoa. Sự thăng hoa đó được cộng cảm tạo thành không khí của lễ hội. Hệ thống lễ hội của các dân tộc ở Kon Tum chia làm ba đường dây chính là Hệ thống lễ hội xung quanh vòng đời người; Hệ thống lễ hội liên quan đến quá trình sinh trưởng của cây trồng; Lễ hội liên quan đến sự tồn tại và phát triển của cộng đồng:
Kon Tum có nhiều thành phần dân tộc sinh sống (6 dân tộc bản địa); mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng, độc đáo; tuy nhiên, trong cái riêng đó nhiều nét tương đồng của sắc thái văn hóa vùng mà lễ hội dân gian là không gian văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, với các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể, tồn tại cùng với không gian và thời gian, nó cố kết cộng đồng, tồn tại và phát triển trong điều kiện địa lý – xã hội của từng địa phương. Bảo tồn những lễ hội của các dân tộc ít người trên cơ sở khai thác, phát huy và kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, loại bỏ những yếu tố lạc hậu để lễ hội thực sự là một không gian văn hóa cộng đồng là yêu cầu có tính cấp thiết trên địa bàn tỉnh.
Khi nói về bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc Tây Nguyên, đầu tiên bao giờ người ta cũng đề cập đến nhà Rông như là một biểu tượng đầy đủ nhất của văn hóa vùng Tây Nguyên. Mặc dù nằm ở cực bắc Tây Nguyên nhưng Kon Tum và Gia Lai lại được xem là cái nôi của nhà rông - một di sản văn hóa đặc trưng của các dân tộc bản địa. Theo tâm niệm của đồng bào các dân tộc thiểu số, đã có làng là phải có nhà rông. Làng nào không có nhà rông thì làng đó thiếu sức sống cội nguồn. Theo tư duy truyền thống của đồng bào các dân tộc thì nhà rông là một thành tố không thể thiếu trong đời sống cộng đồng (văn hóa làng). Nhà rông bao quát mọi tinh hoa văn hóa sáng tạo của con người trong môi trường sinh thái tự nhiên, vừa hùng vĩ vừa tiềm ẩn những yếu tố tâm linh, là biểu hiện của văn hóa rừng và sự cố kết cộng đồng người gắn với thiên nhiên.
Nhà rông là hình ảnh thu nhỏ của các thành tố văn hóa truyền thống của một làng, một tộc người. Nó chiếm giữ vị trí quan trọng nhất trong tư duy và hiện thực đời sống sinh hoạt của tất cả các thành viên trong cộng đồng. Đối với cộng đồng các dân tộc thiểu số thì “Dân tộc-Làng-Nhà rông” là mối quan hệ không thể tách rời, cũng như làng của người Kinh gắn với cây đa, bến nước, sân đình. Nhà rông hùng vĩ vươn lên bầu trời với hình dáng như một lưỡi búa khổng lồ biểu hiện sức mạnh của một cộng đồng làng, thể hiện tinh thần thượng võ, đầy quyền uy, như là chế ngự không gian và thời gian để khẳng định chủ quyền, lãnh địa của làng. Nhiều người hay dùng hình ảnh ngôi nhà rông ở giữa làng với hàng chục nóc nhà vây quanh như gà mẹ chăm đàn gà con, thể hiện sự quây quần, đầm ấm cố kết cộng đồng. Nhà rông thể hiện đỉnh cao về nghệ thuật và kỹ thuật với kiến trúc, kiểu dáng, chất liệu và hoa văn họa tiết vô cùng phong phú và độc đáo, không sử dụng bất kỳ cái đinh, cọng kẽm hay tấc sắt nào cả nhưng lại vững chắc như bàn thạch.
Sự phong phú, độc đáo của bản sắc văn hóa các dân tộc ít người ở Tây Nguyên nói chung và Kon Tum nói riêng có nhiều thể loại khác nhau, nhiều hình thức thể hiện khác nhau, đậm đặc cả trong văn hóa vật thể và phi vật thể, trên đây mới chỉ là khái lược về những thành tố cơ bản nhất của chiều sâu văn hóa các dân tộc ít người ở Kon Tum trong tiến trình hình thành và phát triển của tỉnh Kon Tum 100 năm qua và nhiều năm trước đó. Đấy chính là sự sáng tạo vô cùng tuyệt vời của các thế hệ nghệ nhân dân gian các dân tộc ít người làm nên bản sắc văn hóa đặc thù phục vụ đời sống tinh thần của chính mình, được trao truyền từ đời này sang đời khác và trường tồn cùng với thời gian.
Trần Vĩnh