Thứ hai, Ngày 09/06/2025 -

Tập tục hôn nhân của người J’rai A ráp ở Kon Tum
Ngày đăng: 15/05/2012  02:51
Mặc định Cỡ chữ
Khác với người Kinh, trai gái J’rai khi tìm hiểu nhau, muốn đi đến hôn nhân, nhà gái phải mang lễ vật đi dạm hỏi nhà trai… Vì từ xưa đến nay, vai trò của người phụ nữ trong gia đình và trong cộng đồng của nhóm ngôn ngữ Malayo-Polynesien luôn được xem trọng. Mặc dù, theo xu hướng phát triển của xã hội, văn hóa các dân tộc trên vùng Trường Sơn có ít nhiều thay đổi, không còn nguyên bản như trước đây. Đa phần lễ hội của các dân tộc ở Kon Tum cũng không nằm ngoài quy luật đó... Nhưng riêng tập tục hôn nhân của người J’rai A ráp là còn nguyên vẹn nét hoang sơ, mang đậm đặc trưng chế độ mẫu hệ của các dân tộc trên vùng Tây Nguyên được lưu giữ đến hôm nay.

 

Cây nêu lễ hội của người J’rai - Ảnh: D.Tiên.

Lễ Dạm hỏi (Nhum Palle): Nam, nữ người J’rai khi đến tuổi mười tám, đôi mươi được tự do lựa chọn người yêu và tiến tới hôn nhân một cách tự nguyện. Nhà gái cho người mai mối sang nhà trai dạm hỏi (người làm mối đôi khi là già làng, người có uy tín nhất làng). Qua người làm mối, thiếu nữ J’rai tỏ ý và đưa tặng người yêu một chiếc vòng đồng hay một chuỗi cườm. Khi thay lời cô gái nói lên tình cảm của mình và trao vật đính ước, người làm mối cũng hết sức giữ ý, không bao giờ trao tận tay cho chàng trai mà chỉ để trên chiếu. Nếu người con trai chưa xác định được tình cảm của mình thì anh vẫn cầm sính lễ lên một lúc rồi trả lại cho người làm mối. Còn nếu chàng trai đã chuẩn bị tâm lý sẵn sàng cho cuộc hôn nhân thì anh sẽ tự cầm lấy chiếc vòng đeo vào tay mình, không một ai cầm trao cho hay giúp anh đeo nó. Vì theo luật tục đã chỉ rõ: “Trâu bò không ai ép thừng, trai gái không ai ép duyên”. Nếu người con trai đã nhận vòng, người làm mối hẹn ngày gặp mặt để cô gái nhận vòng của chàng trai, trước sự chứng giám của người làm mối và hai bên gia đình, đôi trai gái chính thức hẹn hò với nhau và hai bên gia đình sẽ định ngày tổ chức lễ cưới.

Nhà gái phải chuẩn bị đầy đủ sính lễ cần thiết để mang đến nhà trai trước ngày cưới, như: Khăn đắp bằng thổ cẩm, chiêng, ché, trâu, bò hoặc là một con heo hay dê... Ngoài ra phải chuẩn bị ít nhất là 04 ghè rượu, một ghè để cúng Yàng tại nhà Rông, 01 ghè biếu người làm mai, một mang đến nhà trai và một ghè để cho gia đình dùng trong ngày cưới. Mặc dù nhà gái là người đứng ra tổ chức hôn lễ nhưng nhà trai cũng chuẩn bị một con heo hoặc vài con gà để góp vui trong ngày trọng đại của đôi trẻ.
 
Lễ cưới (Nhum Bacon): Đến ngày tốt đã được gia đình hai bên thống nhất từ trước rồi báo cho bà con xa gần cùng với dân làng và bạn bè thân thiết của đôi bên đến dự lễ và giúp chuẩn bị tiệc cưới.
 
Lễ cưới được cử hành đơn giản nhưng không kém phần long trọng, linh thiêng tại nhà rông. Từ sáng sớm, gia đình nhà gái đã mang một ghè rượu ngon, đựng trong một ché quý, một con gà mang lên nhà rông để cúng Yàng. Ghè rượu được đặt trang trọng tại vị trí trung tâm và cột chặt vào hai khúc tre hay lồ ô. Hai bên có trang trí những biểu tượng như: tua bông lúa được bào từ thân tre và một ít bông gòn, với mong muốn sự phồn thịnh, ấm no và sự sinh sôi nảy nở đến với đôi vợ chồng trẻ. Sau khi già làng thực hiện song những nghi thức tế lễ Thần linh, mời gọi ông bà, tổ tiên về làng chứng giám cho tình duyên đôi trẻ. Trước sự chứng kiến của tổ tiên, ông mai và hai bên gia đình, đôi trai gái đã cùng nhau ăn một bát cơm đã chuẩn bị sẵn và cùng nhau ăn hết một bộ phận của con gà (đôi khi là gan hoặc một đùi gà), rồi cùng nhau uống hết một “cang” rượu cần đầu tiên của ghè rượu cưới dành các đấng thần linh...thế là họ đã nên vợ nên chồng.
 
Sau đó, hai bên gia đình trở về nhà gái tổ chức tiệc rượu uống mừng cho đôi trai gái hạnh phúc. Họ cùng nhau ăn uống, gõ chiêng, làm trò, nhảy múa những điệu truyền thống hết ngày hôm đó. Ngày nay ngoài những điệu xoang truyền thống của dân tộc mình, các thanh niên còn tổ chức nhạc sống hát cho nhau nghe rất là vui nhộn…
 
Từ đó, chàng trai ở lại bên nhà gái, 5-7 ngày sau họ cùng đưa nhau về nhà trai để họ hàng nhà trai chúc mừng cô dâu mới, rồi sau đó về nhà gái ở hẳn. Ngày trước còn có tục “thử rể”- nếu trong ba năm mà chàng rể lười nhác, không lo tu chí làm ăn thì nhà gái có quyền trả chàng trai về nhà đẻ của mình.
 
Trong thời gian đầu, đây là thời gian chàng trai phải ở rể và làm nương rẫy cho nhà vợ. Sau khi có con thì được làm bếp riêng và ăn riêng nhưng vẫn ở cùng trong một nhà với nhà vợ. Những năm sau đó nếu thấy gia đình đông đúc, chật chội, nếu có nguyện vọng ở riêng thì nhà gái sẽ chia cho một khoảng vườn nhỏ, giúp đôi vợ chồng trẻ làm nhà mới cho riêng mình. Nhưng nếu là con út hoặc gia đình chỉ có một con gái thì phải ở cùng bố mẹ đến lúc bố mẹ qua đời thì người con gái đó lại trở thành chủ gia đình thay thế mẹ của mình lo thu vén trước sau trong nhà. 
 
Ly hôn (Boloi): Nhìn chung chế độ mẫu hệ là một vợ một chồng nhưng đôi khi cũng có trường hợp phải chia tay nhau như gia đình nhà trai giàu, có địa vị trong làng. Nếu người chồng muốn ly hôn thì phải trả lại gấp đôi sính lễ mà nhà gái đã đi cưới anh ta để đền bù cho việc vi phạm luật tục truyền thống của cộng đồng. Sau đó, hai bên gia đình lại mời người làm mai ngày trước hoặc già làng đến làm chứng cho sự trả lễ của người chồng. Ông mai và họ hàng cố gắng hòa giải, nếu không được, ông mai lấy một sợi chỉ đỏ đưa cho hai người cầm lấy hai đầu rồi lấy dao cắt đôi sợi dây. Thế là hai bên được tự do.
 
Sau việc ly hôn, người vợ trở về nhà đập tan bếp lửa, nơi đã chứng kiến bao ngày cả gia đình sum họp bên nhau, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi. Người chồng trở về cha mẹ đẻ mà không mang theo bất cứ tài sản hay đồ dùng nào cho riêng mình và con cái ở với mẹ không đi theo cha.
 
Cũng có trường hợp, việc muốn chia tay là do người vợ đề nghị vì trong qúa trình sống với nhau, người chồng làm ra nhiều lỗi lầm không thể tha thứ như lười nhác không chịu làm việc, ăn nhậu liên miên hoặc ngoại tình…Trong trường hợp này hai bên cũng làm thủ tục ly hôn như trên nhưng có khác là người vợ không đòi trả lại lễ cưới mà còn chia cho chồng một ít tài sản trong nhà.
 
Tục nối dây (Duihơre): Trường hợp họ đang sống với nhau, nếu một trong hai người chết thì phải làm lễ bỏ mả (Pơthi) xong, người còn lại mới được đi lấy chồng hoặc vợ. Nếu chưa làm lễ bỏ mả mà người sống đã đi lấy chồng hoặc vợ thì sẽ bị phạt. Luật tục của làng quy định phạt rất nặng như phải cúng heo to hoặc bò vì đã xúc phạm đến thần linh.
 
Tục nối dây được luật tục bảo vệ rất nghiêm ngặt. Người vợ khi chồng chết, nếu anh chồng chưa vợ thì phải lấy em dâu, còn ngược lại vợ chết thì anh rể lấy em vợ. Trường hợp không có thì lấy bà con trong dòng tộc, sao cho phù hợp với lứa tuổi. Ngày trước, người phụ nữ còn có thể lấy em chồng và người nam cũng có thể lấy chị vợ, nếu những người đó chưa có gia đình.
 
Trần Thị Yến